Hôm nay:

BÀI VIẾT- BÀI LUẬN- GHI CHÚ

Xem tất cả Các bài luận- viết »

ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC

Xem tất cả Đời sống Cơ Đốc»

CHUYÊN MỤC HỎI ĐÁP

Xem tất cả Câu hỏi đáp »

.
THƯ MỤC BẠN MUỐN XEM: LỊCH SỬ CỦA QUYỂN KINH THÁNH
Hiển thị các bài đăng có nhãn LỊCH SỬ CỦA QUYỂN KINH THÁNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Quá Trình Phiên Dịch Kinh Thánh Sang Tiếng Việt.

Đăng bởi Bùi Qúy Đôn | Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2017








Trình bày việc phiên dịch và phổ biến Kinh Thánh thánh sang Tiếng Việt: 


Tôi  xin trình bày tóm lược những điểm chính như sau:

Sau khi đặt chân đến Việt Nam, vì nhu cầu học hỏi tiếng Việt (lúc đó còn dùng chữ Hán và chữ Nôm) để giao tiếp với người bản xứ, các nhà truyền giáo phương Tây đã ghi lại bằng cách phiên âm tiếng Việt dưới dạng chữ La-tinh. Gaspard de Amaral với Từ Vựng Việt Nam - Bồ Đào Nha, và Antoine de Barbosa với Từ Vựng Bồ Đào Nha – Việt Nam đã góp sức hoàn chỉnh lối chữ viết này. Nhưng nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes được xem là người có công trong nỗ lực định chế chữ quốc ngữ qua cuốn tự điển phiên âm Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum do ông soạn và ấn hành năm 1651.

Mặc dầu chữ Quốc Ngữ được phát minh từ thế kỷ 17 với mục đích phổ biến đạo Chúa, nhưng phải mất gần 250 năm sau, đến năm 1872, Giáo Hội Công Giáo mới phát hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Suốt gần 100 năm kế tiếp, các bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ của Giáo Hội Công Giáo chỉ nhằm phục vụ cho hàng giáo phẩm, chứ không phổ biến rộng rãi cho giáo dân. Mãi đến sau Cộng Ðồng Vatican II (1963), Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mới thực hiện những nỗ lực đáng kể để phiên dịch và phổ biến Kinh Thánh bằng Việt Ngữ.

Về phía Giáo Hội Tin Lành, trước khi Tin Lành được truyền bá vào Việt Nam, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Chỉ năm năm sau khi Tin Lành truyền đến Việt Nam (1911), vào năm 1916 các nhà lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành đã bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Giáo hội Tin Lành với niềm xác tín được rằng, "Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời, là thẩm quyền và sự mặc khải duy nhất đến từ T Chúa được ban cho mọi người (nghĩa là mọi người có thể hiểu và tự giải thích Kinh Thánh)",  do đó đã xem việc phổ biến Kinh Thánh là nhân tố quyết định trong nỗ lực truyền bá phúc âm, thành lập các giáo đoàn, và gây dựng đời sống tâm linh cho tín hữu.

Chỉ 5 năm sau khi Tin Lành truyền bá đến Việt Nam, năm 1916, những nhà lãnh đạo Tin Lành đã khởi sự dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của  mình.

Lược sử quá trình: 


- Năm 1872 Giáo Hội Công Giáo xuất bản một cuốn sách hướng dẫn về giáo nghi, trong đó có dịch một số sách Phúc Âm trong Kinh Thánh được phát hành tại Bangkok, Thái Lan.

- Jean Bonnet thuộc Trường Ngôn ngữ Đông phương Paris dịch Phúc âm Lu-ca sang tiếng Việt dựa trên bản Kinh Thánh Pháp ngữ Ostevald, và được Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản tại Paris năm 1890, đến năm 1898, được tái bản lần đầu tiên.

- Thánh Kinh Hội Anh Quốc phát hành Phúc âm Mác năm 1899, Phúc âm Giăng năm 1900, và Công vụ các Sứ đồ năm 1903.

- Năm 1913, P.M. Hosler thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp dịch lại Phúc âm Mác ra chữ Nôm, và xuất bản tại Quảng Tây, Trung Hoa.

- Năm 1913-1914, Giáo hội Công giáo xuất bản Thánh Kinh Cựu Ước song ngữ với bản Vulgata, và bản Tân Ước in song ngữ Việt – La-tinh theo bản Vulgata (năm 1916) do Albert Schlicklin thực hiện, và được phát hành tại Hong Kong.

- Năm 1925, Giáo hội Công giáo cho xuất bản cuốn Các sách Phúc âm của Marcos Gispert-Forcade
Năm 1926 các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của  mình.


(Xem chi tiết tại đây)


Nhận định: 


     Khi những nhà truyền giáo đầu tiên có thể sử dụng tiếng Việt trôi chảy thì chữ Quốc ngữ đã phổ biến và thay thế chữ Nho để trở nên ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, mặc dù chữ Nho vẫn còn là ngôn ngữ của các học giả thuộc thế hệ trước. Giống những khu vực truyền giáo khác của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, các giáo sĩ tại Việt Nam ủy thác việc dịch thuật và văn phẩm cho những tín hữu người Việt đã được huấn luyện đặc biệt cho công việc này, với mục tiêu hàng đầu là dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt.

     Chữ Quốc ngữ được lựa chọn như là một ưu tiên mặc dù một học giả Việt Nam có chức trách dịch các sách Phúc âm ra chữ Nôm. William C. Cadman và vợ, Grace Hazenberg Cadman - bà Cadman đã hoàn tất chương trình cao học chuyên ngành tiếng Hebrew và tiếng Hy Lạp, hai ngôn ngữ được sử dụng để viết Cựu Ước và Tân Ước - bắt đầu công cuộc dịch thuật từ năm 1914.Với sự trợ giúp của một học giả tên Nho, họ đã kịp hoàn thành các sách Phúc âm Giăng, Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, cũng như sách Công vụ các Sứ đồ, và thư Rô-ma trước khi Toàn quyền Pháp ra lệnh đóng cửa các cơ sở truyền giáo và trục xuất năm nhà truyền giáo vào cuối năm 1915. Đến năm 1918, bản Quốc ngữ của các sách này được ấn hành tại Thượng Hải, trong khi bản chữ Nôm được ấn hành ở Hà Nội.

     Từ đầu năm 1921 đến cuối năm 1922, với sự cộng tác của Trần Văn Dõng, một dịch giả chuyên nghiệp, J. D. Olsen đảm trách công cuộc dịch thuật những sách còn lại của Tân Ước, in tại Thượng Hải và phát hành tại Việt Nam trong năm 1922, rồi được tái bản ngay trong năm sau. Kể từ năm 1920, chữ Quốc ngữ được chọn làm ngôn ngữ duy nhất để dịch Kinh Thánh, việc phiên dịch Kinh Thánh sang chữ Nôm bị dừng lại mặc dù bảy bản Kinh Thánh chữ Nôm vẫn được xuất bản cho đến giữa thập niên 1930.

     Năm 1919, ông bà Cadman trở lại với công việc dịch thuật Kinh Thánh, lần này có sự cộng tác của học giả Phan KhôiĐến năm 1925, họ hoàn tất bản dịch Cựu Ước. Sau khi được duyệt xét kỹ lưỡng bởi các văn sĩ, mục sư, giáo sĩ, kể cả Olsen, toàn bộ Kinh Thánh được in tại Hà Nội năm 1926.
Khi Thánh Kinh Hội Anh Quốc nhận tài trợ và xuất bản, Kinh Thánh Việt ngữ 1926 được phổ biến rộng rãi, được yêu thích, và không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong tình cảm tôn giáo của tín hữu Tin Lành tại Việt Nam cho đến ngày nay, mà còn được xem là một tác phẩm đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cách hành văn quốc ngữ vào đầu thế kỷ 20.

Ảnh hưởng trong việc truyền giáo: 


- Trong giai đoạn này, chữ Quốc ngữ ngày càng phổ thông trong khi sách, báo, tạp chí còn hiếm. Nhiều người khao khát tìm đọc bất cứ gì họ có trong tay. Theo thói quen thời ấy, trong nhiều gia đình ở Việt Nam, khi tìm được một quyển sách mới, vào mỗi tối, dưới ánh đèn dầu, một người đọc lớn tiếng cho cả nhà cùng nghe trong khi mỗi người vẫn tiếp tục công việc của mình. Dưới ảnh hưởng Khổng Mạnh, hầu hết sách đều được quý trọng và đọc cách nghiêm túc. Đây là cơ hội để Kinh Thánh, các phần của Kinh Thánh, và các loại truyền đạo đơn được phân phối rộng rãi, và thường được đón nhận cách tích cực.

Nhà in Tin Lành, thành lập năm 1920 tại Hà Nội, phải hoạt động cật lực để đáp ứng nhu cầu xuất bản Kinh Thánh, các phần của Kinh Thánh, cùng các loại ấn phẩm khác.Năm 1922, William C. Cadman, người thành lập và điều hành nhà in, báo cáo, "việc bán các phần Kinh Thánh, sách và truyền đạo đơn rất chạy, đến nỗi nhà in khó mà in kịp các sách tái bản."

- Nhận xét về bản Kinh Thánh tiếng Việt 1926, nhà báo Vu Gia viết, "Nhìn chung, đây là bản dịch tốt. Nhưng nói như vậy chẳng khác nào khen phò mã tốt áo, bởi thời gian đã khẳng định bản dịch ấy rồi", còn nhà văn Tô Hoài nói, "Kinh Thánh cả Tân Ước, Cựu Ước của hội  Tin Lành, người ta bảo ông (Phan Khôi) dịch thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng có đọc. Có chương Nhã Ca lời rất thơ".Tác giả cuốn "Người Quảng Nam", Lê Minh Quốc, viết về sự đóng góp của Phan Khôi đối với bản dịch Kinh Thánh 1926, "Giai đoạn này, ông đã làm một việc khó ai ngờ là sử dụng bản chữ Hán đối chiếu với bản chữ Pháp để dịch Kinh Thánh cho hội Tin Lành. Bản dịch của ông câu cú gãy gọn, trong sáng, văn phạm chuẩn mực, chứng tỏ một trình độ học vấn uyên thâm".

-->   Như vậy cho thấy so với các tác phẩm nổi tiếng thì Kinh Thánh thời đó cũng nổi tiếng chắc chắn cũng thu hút người đọc trong quá trình truyền giáo. Đây dường như một tác phẩm vĩ đại cho tầng lớp thượng lưu ngày đó.

- Tác giả bài viết "Người dịch Kinh Thánh Tin Lành ra tiếng Việt" đưa ra nhận xét, "Tôi tin chắc rằng bản Kinh Thánh Việt ngữ xuất bản năm 1926 đã ăn sâu vào trong tâm khảm của những tín hữu Tin Lành tại Việt Nam, tôi được biết có nhiều tín hữu Tin Lành đã thuộc nằm lòng khá nhiều câu Kinh theo bản dịch ấy đến nỗi khó có thể thay đổi đi được trong tâm họ. Thậm chí có không ít những Mục Sư, tín hữu Tin Lành quả quyết rằng chỉ có bản dịch Kinh Thánh năm 1926 của nhà văn Phan Khôi là số một mà thôi, không bản dịch nào hơn cả và rồi họ chỉ dùng độc có bản dịch đó để đọc, để học, để chia sẻ, để giảng dạy. Nói như vậy để cho thấy rằng bản dịch Kinh Thánh năm 1926 đã có một chỗ đứng rất vững vàng trong lòng rất nhiều những người theo đạo Tin Lành tại Việt Nam trong một thế kỷ trôi qua. Ngoài nhà văn, dịch giả Phan Khôi ra, được biết còn có nhà văn, dịch giả Trần Văn Dõng, cũng có góp phần trong việc dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ nữa."

Bài học: 


+  Với sự bảo trợ của Liên hiệp Thánh Kinh Hội (UBS), công tác hiệu đính bản Kinh Thánh Việt ngữ 1926 khởi sự từ năm 1999, đến năm 2004 hoàn tất hiệu đính bản Tân Ước, và bản Cựu Ước vào cuối năm 2007. Sau khi thu nhận nhiều ý kiến đóng góp và qua ba kỳ hội thảo về công tác hiệu đính trong những năm 2005, 2007, và 2009, bản Hiệu đính được phát hành năm 2010. Bản dịch này được gọi là Bản Hiệu Đính Truyền Thống hay Bản Hiệu Đính 2010. Năm 2011 tái bản bản dịch này. Cùng dòng thời gian đó:

- Năm 2010, bản Kinh Thánh Việt Ngữ dựa theo bản Anh Ngữ của World Bible Translation Center (Arlington, Texas) được xuất bản tại Hoa Kỳ với tên gọi là Bản Phổ Thông. Bản dịch này do Giáo sư Phạm Quang Tâm thực hiện.

- Năm 2011, Văn Phẩm Nguồn Sống tại Anaheim, California phát hành bản thảo Tân Ước song ngữ New International Version - Văn Phẩm Nguồn Sống (NIV-VPNS).

- Năm 2011, Hội Kinh Thánh Việt Ngữ phát hành bản dịch Kinh Thánh được dịch trực tiếp từ nguyên văn Hebrew (Do Thái) và Greek (Hy Lạp) tại California. Bản dịch này do Mục Sư Ðặng Ngọc Báu thực hiện.

+ Tuy nhiên, theo thời gian cùng với sự thay đổi, chuyển hóa của ngôn ngữ, một số từ trong bản Kinh Thánh tiếng Việt năm 1926 trở nên cổ, một số từ mà ngữ nghĩa đã thay đổi, một số cách diễn đạt không còn thích hợp và trở nên khó hiểu đối với độc giả hiện nay. Tuy nhiên,  là một ấn bản khá cổ xưa, văn phong trong một số câu, đoạn của Bản Kinh Thánh Việt ngữ 1926 không còn thích hợp với ngữ cảnh hiện nay, cũng như một số từ ngữ trở nên khó hiểu với độc giả đương đại. Nhiều bản dịch Kinh Thánh khác đã được phát hành, nhưng cho đến nay, chưa có bản dịch nào có thể thay thế vị trí của Bản Kinh Thánh tiếng Việt 1926. Tôi nhận thấy điều này. Mặc dù có nhiều bản dịch nhưng tôi vẫn dạy tại HT cũng như học nghiên cứu vẫn là bản dịch 1926. Còn dường như các bản dịch khác là tôi dùng để tham khảo, mở rộng về dịch nghĩa đối chiếu mà thôi.

Để khắc phục sự khó hiểu đó trong bản 1926, tôi thiết nghĩ hãy làm hết sức mình để học am hiểu lời Chúa cách thấu đáo, rõ ràng không hiểu sai chân lý để rao truyền một Phúc Âm chân chính khắp mọi miền trên quê hương Việt Nam.

+ Về tương lai của phiên dịch:

-Phần dịch Kinh Thánh sang Tiếng Việt ngày càng được chu toàn hơn về ý nghĩa cũng như văn tự so với bản KT gốc. 

-Theo tôi có thể soạn thảo và phiên dịch song hành với những sách giải nghĩa Kinh Thánh nguyên ngữ sang Việt Ngữ như vậy có thể mang đến sự hiểu biết Lời Chúa có thể thấu đáo hơn bằng ngôn ngữ Việt.

-Hổ trợ cho các dự án phiên dịch Kinh Thánh sang các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngõ hầu mọi dân tộc mọi thứ tiếng đều có thể đọc được Kinh Thánh.

QUÝ ĐÔN
(Tổng lược)








Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


Trước Giả Kinh Thánh

Đăng bởi Bùi Qúy Đôn | Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013







TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH





Bạn đọc thêm Lịch Sử Quyển Kinh Thánh tại đây.


TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NHỮNG TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH, NIÊN ĐẠI SÁCH KINH THÁNH, 


Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


Kinh Thánh Vô Ngộ Không Sai Lạc ?

Đăng bởi Bùi Qúy Đôn | Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013









KINH THÁNH VÔ NGỘ KHÔNG SAI LẠC

CÂU HỎI: 
Nhiều người dựa vào những phân đoạn trong KT dường như không có sự "thống nhất" với nhau (một thí dụ điển hình như Ma-thi-ơ 27:5 với Công vụ 1:18) nên cho rằng KT có sai trật, sai lạc (nghĩa là KT không hoàn toàn đúng). Quý thầy cô có đồng ý như vậy không? Xin làm sáng tỏ vấn đề này.

TRẢ LỜI:
Chúng ta đã biết: KT được Đức Chúa Trời linh cảm và vô ngộ, không sai trật và không có sai lạc. (II Ti-mô-thê 3: 16 ). Nhưng khi đọc KT dường như không có sự “thống nhất” với nhau như bạn đã nói trong Ma-thi-ơ 27: 5 với Công vụ 1: 18 hay trong Ma-thi-ơ 8: 28- 34 vơi Mác 5: 1- 20, …
          Tôi đồng ý với bạn là KT có nhiều chỗ nói khác nhau về cùng một sự kiện. Nhưng chưa chắc sự khác nhau, sự chưa “thống nhất” đó đã khiến KT không đúng và sai trật. VÌ:

1. Lý do thứ nhất: Khi KT nói gần đúng, nói sấp sỉ về số liệu, hay một điều gì đó không có nghĩa là sai:

Ví dụ: Trong bài giảng của Ê-tiên trước các thầy cả thượng phẩm là dõng dõi của Áp-ra-ham bị hà hiếp trong 400 năm (Công vụ 7: 6) trong khi cựu ước Xuất 12: 40 lại nói là 430 năm.
Hay một ví dụ thực tế: Như tôi nói: Trong phòng học Kinh Thánh Nhập Môn có 20 sinh viên. Và bạn A nói: Thấy trong phòng Kinh Thánh Nhập Môn có 5 sinh viên tại Việt Nam. Như vậy cả hai đều nói đúng, không sai. Vì  tôi nói cách tổng quát tất cả các sinh viên trong lớp học, còn bạn A chỉ nói tới các bạn sinh viên ở Việt Nam trong lớp học Kinh Thánh nhập môn. Đó cũng là lý do thứ 2 mà tôi muốn nói đến.

Lý do thứ 2: Mục đích nội dung sứ điệp mà người viết  (tác giả ) muốn nói đến, muốn nhấn mạnh.


* Bây giờ chúng ta cùng xem xét câu chuyện xung quanh cái chết của Giu-đa qua 2 phân đoạn KT Mathio 27: 3- 10 và Công vụ 1: 18- 19.
- Mathio 27: 3- 10 nói về cái chết của Giu-đa như sau: Khi trả 30 mươi miếng bạc cho các thầy tế lễ cả và các trưởng lão, ông đi ra ngoài thắt cổ tự tử. Bấy giờ các thầy tế lễ cả lấy số tiền đó mua một đam ruộng để chôn ông.
- Ở trong Công vụ 1: 18- 19 thì Lu-ca  mói Giu-đa mua một đám ruộng bằng số tiền đó (30 miếng bạc ) rồi nhào xuống nứt bụng và ruột đổ ra hết.

a. Xét về mốc thời gian:

      Xét về mốc thời gian thì Mathio nói về nói về cái chết của Giu-đa sau khi thấy Chúa bị kết án (vào ngày thứ 6 ). Còn về Công vụ 1: 18- 19 nói về cái chết của Giu-đa sau một thời gian so với thời gian mà Mathio viết [có thể sớm nhất vào sau ngày Sa-bát (thứ 7) ]. Đây là 2 phân đoạn KT bổ sung đầy đủ những sự kiện lịch sử về Giu-đa cho đến thời điểm Giu-đa chết.

b. Mục đích sứ điệp mà tác giả nhấn mạnh:

Mathio nói đến sự ăn năn về lỗi lầm của Giu-đa vì đã nộp huyết vô tội là Chúa Giê-xu. Mathio đang nhấn mạnh cho độc giả rằng Chúa Giê-xu là Đấng vô tội, Đấng Thánh Khiết của Đức Chúa Trời. Còn Công vụ 1: 18-19 bổ sung thêm về sự kiện về cái chết của Giu-đa một cách chắc chắn và mọi người trong thành Giê-ru-sa-lem đều biết, bởi đó (Lu-ca nhấn mạnh ) đã mở đường để bổ nhiệm người kế vị chức vụ sứ đồ của Giu-đa.

c. Kết hợp 2 phân đoạn để có một câu chuyện hoàn chỉnh:

          Câu chuyện hoàn chỉnh về cái chết của Giu-đa. Khi thấy Chúa Giê-xu bị kết án, Giu-đa đã ăn năn về lỗi lầm của mình là đã nộp Đấng vô tội, liền đem trả 30 miếng bạc mà mình đã nhận để nộp Chúa Giê-xu cho các trưởng lão và thầy tế lễ cả, rồi ông đi ra ngoài thắt cổ tự tử. Bấy giờ các thầy tế lễ cả lấy số tiền đó mua một đám ruộng để chôn Giu-đa. Theo Lu-ca (Công vụ 1: 18 ) thì “Giu-đa mua đám ruộng” theo ý nghĩa đó là chính tiền của ông [30 miếng bạc là giá nộp Chúa Giê-xu của Giu-đa mà các thầy tế lễ cả là không được để trong kho thánh Mathio 27: 6 ] và các thầy tế lễ cả đi mua ruộng với tư cách là đại diện cho Giu-đa. Ông treo cổ tự tử trên cây nhưng dây bị đứt 9 (có thể 1 thời gian sau dây mới bị đứt ), ông đã bị nhào xuống ruộng khiến cho nứt bụng và ruột đổ ra hết. Biến cố này cả dân thành Giê-ru-sa-lem đều biết và gọi ruộng đó là ruộng huyết tức là ruộng đẫm máu. Và các thầy tế lễ đã mua đám ruộng đó để chôn xác ông.  (Thêm ) Theo tôi ruộng mà Giu-đa nhào xuống là ruộng có nước vì có nước khiến thi thể người chết rồi dễ bị nứt bụng ra nhanh hơn và máu được tràn ra khắp ruộng nhiều hơn.

Như vậy không có sự mâu thuẫn, sự không thống nhất trong câu chuyện này. Hay Kinh Thánh không có sự sai trật, sai lạc. 

Mục sư Bùi Qúy Đôn



Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


Tại Sao Bạn Tin Kinh Thánh?







TẠI SAO BẠN TIN KINH THÁNH?



CÂU HỎI: 
Một người không biết Chúa chất vấn bạn: Thế kỷ này mà bạn còn tin vào Kinh Thánh nữa sao? Kinh Thánh đã lỗi thời rồi, không còn thích hợp với thời đại tân tiến ngày nay. Vậy bạn phải giải thích hoặc chứng minh thế nào mà thế kỷ này bạn vẫn còn tin vào Kinh Thánh? 

Trả lời:

Khi bạn nói KT lỗi thời và không còn phù hợp với thời hiện đại tân tiến ngày nay, thì tôi cũng có phần nào đó đồng tình với bạn khi có suy nghĩ như sau: 
-         Phải chăng, bạn nghĩ là KT được viết trong thời gian đến nay là lâu rồi nên bạn cho là “cổ”.
-         Phải chăng, KT có miêu tả, kể lại một số sinh hoạt, phong tục thời xưa, “thời cổ” thì hiển nhiên sẽ không thể đem nó áp dụng 100% cho thời hiện đại này được nên lỗi thời.

"Đối với Kinh Thánh: CỔ chưa chắc đã CŨ. LÂU ĐỜI nhưng chưa chắc đã LỖI THỜI."
Mục sư Bùi Qúy Đôn

NHƯNG:

1.     Với KT được viết bắt đầu từ 1500 TC và được hoàn tất 100 SC, đối với suy nghĩ của chúng ta ngày nay thì cho KT là một cuốn sách ‘cổ’ vì nó đã cách chúng ta hàng nghìn năm rồi. Tôi đồng tình với quan điểm này của bạn. KT là “cổ” đối với bạn nhưng chưa chắc đã CŨ. KT “lâu đời” nhưng chưa chắc đã LỖI THỜI. VÌ:
a.     KT phần lớn là những câu truyện tích đã được viết từ lâu nhưng nó lại chứa đựng nội dung, sứ điệp không hề thay đổi theo thời gian. Một chân lý vô thời gian không thay đổi cho dù thời đại, con người hay địa lý thay đổi; đó là: Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo, Đức Chúa Trời yêu thương, cứu chuộc và có mục đích tuyệt vời cho con người.
b.     Chính vì sự “cổ kính” của KT đó mà nhà khoa học noi theo các dấu tích của KT đã tìm thấy những khảo cổ, di vật đã chứng minh KT là hoàn toàn đúng là lời Đức Chúa Trời. Chính các nhà khoa học đó đã dẫn con người đến với Đức Chúa Trời chân thật và tin Kinh Thánh. Như Viktor Gess (1883-1964), giáo sư Đại học tổng hợp Fort-ham, người được giải thưởng Nô-bel đã nói: "Một nhà khoa học chân chính có thể tin vào Đức Chúa Trời được không? Tôi nghĩ là có ... Tôi phải thừa nhận rằng qua suốt bấy nhiêu năm nghiên cứu khoa học của mình trong lĩnh vực vật lý và địa chất tôi chưa bao giờ nhận thấy những kết quả nghiên cứu khoa học có điều gì trái nghịch với đức tin vào Đức Chúa Trời - Đấng Tạo Hóa."
c.      Hiện nay KT được in nhiều mồi năm (khoảng 100 triệu cuốn Kinh Thánh được bán ra mỗi năm và con số này mỗi năm càng gia tăng), được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới (Kinh Thánh đã được dịch ra 191 thứ tiếng, có vài phần của Kinh Thánh đã được phiên dịch ra 1.090 thứ tiếng trên thế giới), được nhiều người đọc trải qua mọi thời đại (trên thế giới đã có trên 6 tỷ người đọc Kinh Thánh) họ đọc và hiểu được KT về Đức Chúa Trời, về tội lỗi, về sự cứu rỗi qua đức tin trong Đức Chúa Giê-xu.
 Đối với Kinh Thánh: CỔ chưa chắc đã CŨ. LÂU ĐỜI nhưng chưa chắc đã LỖI THỜI.

2.     KT cũng viết về một số sinh hoạt, phong tục thời xưa nhưng chưa chắc là lỗi thời hay không còn thích hợp với ngày nay nữa. Nhưng đã có hàng triệu người tìm được an ủi, ý nghĩa cho cuộc sống, sự cứu rỗi qua Kinh Thánh. Dù văn hóa thời xưa khác nhiều với thời nay, nhưng những điều giống nhau vẫn nhiều hơn. Người thời xưa vẫn sống, ăn uống, yêu thương, đau ốm, tranh đấu, suy nghĩ, phạm tội, chết và cũng như người ngày nay. Thật là sai lầm khi cho rằng trí óc người thời xưa khác trí óc người thời nay. Ông E. D. Hirsch gọi sự sai lầm này là sự ngụy biện do thiếu hiểu biết quá khứ. Ông bảo rằng có ít khác biệt giữa người thời nay với người thời xưa hơn là giữa người thời nay với người thời nay. Kinh Thánh vẫn hiểu được và vẫn có giá trị thích hợp cho ngày nay.

3.     Lý do lớn thứ 3 tại sao ngày nay tôi vẫn tin Kinh Thánh, đây cũng là lý do quan trọng nhất đối với tôi tin chắc KT rằng: KT được Đức Chúa Trời linh cảm, là lời Đức Chúa Trời, KT là của Đức Chúa Trời nên dù lịch sử có tân tiến đến đâu cũng không thể vượt qua được Đức Chúa Trời Vô Hạn Vĩ Đại và quyền năng được. Thế giới này chỉ là tạo vật của Thượng Đế, luôn luôn bị giới hạn và Đức Chúa Trời là vô hạn nên Lời Ngài luôn luôn mang tính hợp thời, không bị lỗi thời.

Vậy tôi xin kết luận với bạn rằng Kinh Thánh không có lỗi thời và luôn luôn còn thích hợp với thời đại tân tiến ngày nay. Không những riêng tôi mà rất nhiều người trên thế giới vẫn còn tin vào Kinh Thánh.

Điều quan trọng nhất:

“Chỉ khi nào Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động trong lòng người chưa được tái sanh thì bấy giờ người ấy mới có thể tin tưởng cách trọn vẹn vào Kinh Thánh. Người chưa được cứu có thể tin Kinh Thánh là sách lịch sử có giá trị và chứa đựng những lời khuyên rất có lý. Người ấy có lẽ cũng cảm kích về giá trị của đạo đức của Kinh Thánh. Nhưng chỉ có hành động nhiệm mầu của Đức Thánh Linh mới khiến cho người ấy thấy được giá trị đích thực của Kinh Thánh - sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Chân lý này thường được gọi sự làm chứng nội tại của Đức Thánh Linh.”

Chỉ có đức tin do Đức Chúa Trời ban mới là bằng chứng tin rằng Kinh Thánh chính là Lời của Đức Chúa Trời, là Lời không bao giờ lỗi thời, mãi mãi không bao giờ lỗi thời.

Mục sư Bùi Qúy Đôn




Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


Lịch Sử Của Kinh Thánh

Đăng bởi Bùi Qúy Đôn | Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012








LỊCH SỬ CỦA QUYỂN KINH THÁNH
Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Lịch sử của quyển Kinh Thánh, hiểu biết lịch sử của quyển Kinh Thánh rất quan trọng, trang lịch sử của quyển Kinh Thánh này giúp ích độc giả  biết về lịch sử của quyển Kinh Thánh và nguồn gốc, nội dung, … của Kinh Thánh như thế nào. Lịch sử của quyển Kinh Thánh,…


Danh từ Kinh Thánh được dịch ra từ chữ La-tinh "biblia" có nghĩa là quyển sách. Ngày xưa người ta dùng vỏ cây cắt ra thật mỏng như tờ giấy (papyrus) để ghi chép các tài liệu, loại giấy nầy được sản xuất và bán đi các nơi từ thành phố Biblios, một hải cảng ở phía bắc nước Do Thái, của người Phê-ni-xi, gần Beyruth, Lebanon ngày nay.

Vào thế kỷ thứ 5 S. C., các Hội thánh Hy Lạp dùng danh từ "Tà Biblia" hoặc "Biblia" cho Các Quyển Sách Thánh (Kinh Thánh). Nhiều người cho rằng Jean Chrysostome trưởng lão tại thành Constantinople (398-404 S. C.), là người thứ nhất dùng danh từ nầy. Ðến thế kỷ thứ 13, thì "Tà Biblia" trở nên "Biblio" hay "Biblia[1]" theo tiếng La-tinh tức là Các Sách Thánh trở nên Kinh Thánh. Sau đó các nước Tây phương cũng chấp nhận và dùng danh từ "The Bible" hoặc "La Bible".

I.  Nội Dung:
Kinh Thánh gồm có phần Cựu Ước và Tân Ước. Chữ Ước trong Cựu Ước được dịch từ danh từ berith của Hy-bá-lai có nghĩa là giao ước. Trong Tân Ước, chữ Ước được dịch từ danh từ diatheke của Hy Lạp có nghĩa là chúc thư (testament) hay giao ước (covenant). Nội dung của Cựu Ước nói lên giao ước giữa Ðức Chúa Trời và dân sự của Ngài, tức là dân Do-thái. Còn Tân Ước nói về giao ước mới của Thượng Ðế với loài người, "hầu cho hể ai tin Con Ngài đều được sự sống đời đời". Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

A. Cựu Ước của Cơ đốc giáo và Kinh Thánh Do thái giáo (Hebrew Bible) đều giống nhau. Cựu Ước có 39 quyển sách trong khi đó Kinh Thánh Do-thái có 24. Sự khác biệt nầy là do các vị lãnh đạo Cơ đốc giáo ngày xưa đã chia các sách Tiên tri và lịch sử ra làm nhiều sách riêng biệt. Cựu Ước đã được Ðức Chúa Jêsus và các Môn đồ cùng Sứ đồ nhìn nhận và gọi là Kinh Thánh (Scripture, Holy Scriptures). Các sách của Cựu Ước và Kinh Thánh Do-thái là:

Kinh Thánh Cựu Ước
Kinh Thánh Do thái
A.  Năm quyển sách của Môi-se:
A.  Các sách luật pháp:
1.  Sáng thế ký
Sáng thế ký
2.  Xuất Ê-díp-tô ký.
Xuất Ê-díp-tô ký.
3.  Lê-vi ký.
Lê-vi ký.
4.  Dân số ký.
Dân số ký.
5.  Phục Truyền luật lệ ký.
Phục Truyền luật lệ ký.
B.  Các sách về lịch sử:
B.  Các sách tiên tri:
6.  Giô-suê.
2a.  Tiên tri trước:
7.  Các Quan xét.
Giô-suê.
8.  Ru-tơ.
Các Quan xét.
9.  I Sa-mu-ên.
Sa-mu-ên (Sa-mu-ên I và II).
10.  II Sa-mu-ên.
Các Vua (Các Vua I và II).
11.  I Các Vua.
2b. Tiên tri sau:
12.  II Các Vua.
Ê-sai,
13.  I Sử ký.
Giê-rê-mi,
14.  II Sử ký.
Ê-xê-chi-ên,
15.  E-xơ-ra.
Sách mười hai: Ô-sê.
16.  Nê-hê-mi.
Giô-ên.
17.  Ê-xơ-tê.
A-mốt.
C.  Các sách văn thơ:
Áp-đia.
18.  Gióp.
Giô-na.
19.  Thi Thiên.
Mi-chê.
20.  Châm Ngôn.
Na-hum.
21.  Truyền đạo.
Ha-ba-cúc.
22.  Nhã ca.
Sô-phô-ni.
D.  Các sách tiên tri:
A-ghê.
23.  Ê-sai.
Xa-cha-ri.
24.  Giê-rê-mi.
Ma-la-chi.
25.  Ca thương.
C.  Các sách văn thơ:
26.  Ê-xê-chi-ên.
Thi Thiên.
27.  Ða-ni-ên.
Gióp.
28.  Ô-sê.
Châm Ngôn.
29.  Giô-ên.
Ru-tơ.
30.  A-mốt.
Nhã ca.
31.  Áp-đia.
Truyền đạo.
32.  Giô-na.
Ca thương.
33.  Mi-chê.
Ê-xơ-tê.
34.  Na-hum.
Ða-ni-ên.
35.  Ha-ba-cúc.
E-xơ-ra và Nê-hê-mi.
36.  Sô-phô-ni.
Sử ký (Sử ký I và II).
37.  A-ghê.

38.  Xa-cha-ri.

39.  Ma-la-chi.


Các sách Ẩn Kinh (Apocrypha): Kinh Thánh của Giáo hội Công giáo La-mã và Chính thống giáo Ðông phương (Eastern Orthodox) có thêm các quyển sách lịch sử và thơ văn Do-thái khác vào. Các quyển sách nầy được gọi là Deuterocanon, có nghĩa là Thứ Kinh (secondary canon). Người Do-thái và Tin Lành gọi là Apocrypha, hay Ẩn Kinh (hidden canon), còn được gọi là Ngụy Kinh. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Các sách Ẩn Kinh được viết trong thời gian nước Do Thái bị ngoại ban đô hộ và hà hiếp từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ nhất T. C. (trong thời gian bốn trăm năm yên lặng). Các quyển sách nầy, được viết bằng tiếng Hy-bá-lai và tiếng Hy-lạp, thường không có xuất xứ rỏ ràng, và được cho vào bản dịch Bảy Mươi bằng tiếng Hy Lạp, bản dịch La-tinh thế kỷ thứ hai, bản La-tinh Vulgate thế kỷ thứ năm, nên rất phổ thông. Nội dung của các sách nầy có nhiều chỗ đi ngược lại sự dạy dỗ của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước vì thế Hội thánh đầu tiên và Giáo Hội Công Giáo không công nhận. Mãi cho đến thời kỳ cải chánh (Reformation), vào năm 1546 S. C., Hội Ðồng Giáo Hội Công Giáo La Mã, tại thành Trent nước Ý, mới chánh thức công nhận Ẩn Kinh là Thánh (canon) để ngăn chận phong trào cải chánh vì những người theo phong trào (Protestants) không cho Ẩn Kinh như là lời của Thượng Ðế. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Hai mươi năm sau khi Ðền Thánh bị phá hủy bởi quân La mã và dân Do Thái bị tản lạc khắp nơi, vào năm 90 S. C., một số học giả Do Thái họp tại Jamnia, cách Giê-ru-sa-lem chừng 50 Km về phía tây, để thống nhất và hợp thức hóa Kinh Thánh Do Thái (họ loại bỏ Ẩn Kinh ra) vì họ nhận thức rằng chỉ có Kinh Thánh và những sự dạy dỗ trong Kinh Thánh mới có thể liên kết dân Do Thái với nhau dù họ ở nơi nào trên thế giới. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Ðức Chúa Jêsus không bao giờ trích dẫn từ Ẩn Kinh trong chức vụ của Ngài tại thế, cũng như trong cả Tân Ước, với tổng cộng hơn 300 lần trích dẫn từ Cựu Ước, chúng ta không thấy chỗ nào dùng đến những quyển sách nầy. Tín hữu Tin lành cho rằng Ẩn Kinh có giá trị, đáng được nghiên cứu (Giáo sĩ Cadman đã trích dẫn nhiều đoạn từ Ẩn Kinh trong quyển Thánh Kinh Từ Ðiển của ông), tuy nhiên các sách nầy không có thẩm quyền như các sách Cựu Ước được Ðức Thánh Linh soi dẫn. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Các sách Ẩn Kinh
1. Tobit
10. Bel and the Dragon
2. Judith
11. I Maccabees
3. Phụ bản của Ê-xơ-tê
12. II Maccabees
4. Tri thức của Sô-lô-môn
13. I Esdras
5. Ecclesiasticus (Sirach)
14. Lời cầu nguyện của Ma-na-se
6. Baruch
15. Thi thiên 151
7. Thơ của Giê-rê-mi
16. III Maccabees
8. Lời cầu của A-xa-ria và ba bạn Hê-bơ-rơ
17. II Esdras
9. Susana
18. IV Maccabees

B.  Tân Ước: Thánh thư Tân Ước (canon of the New Testament) là những quyển sách được Ðức Thánh Linh soi dẫn. Làm sao chúng ta biết rằng đây là những Thánh thư hay Tân Ước thật có đúng là lời của Ðức Chúa Trời hay không? Vì có rất nhiều thơ tín và văn chương Cơ đốc từ thời Chúa Jêsus, cho nên rất khó mà biết sách nào là sách Thánh. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Vào thế kỷ thứ 4 S. C., Công giáo hội nghị (Church council) gồm mười trưởng lão đã chọn các quyển sách để biệt vào hàng Thánh thư, tức là được Ðức Thánh Linh soi dẫn để cho vào Tân Ước. Nguyên tắc lựa chọn của họ là những tài liệu thơ tín của các Môn đồ, Sứ đồ trực tiếp học hỏi từ Ðức Chúa Jêsus như Phi-e-rơ, Phao-lô, Giăng, Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca... là các quyển sách Thánh, được Ðức Chúa Trời hà hơi. Tuy nhiên nhiều Hội thánh lúc đầu hoài nghi về các sách Gia-cơ, II Giăng, III Giăng. Nhiều người cho rằng các vị trên đã được giao phó một công tác vượt quá khả năng của loài người, nhưng trên thực tế những vị nầy chỉ khẳng định các sách đã được giáo giới chấp nhận từ lâu, có nghĩa là họ đã hợp thức hoá các Thánh thư Tân Ước, chứ không phải có quyền cho quyển sách nào là thánh hay không. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Các quyển sách Tân Ước
1.      Ma-thi-ơ
10.    Ê-phê-sô
19.   Hê-bơ-rơ
2.      Mác
11.    Phi-líp
20.   Gia-cơ
3.      Lu-ca
12.    Cô-lô-se
21.   I Phi-e-rơ
4.      Giăng
13.    I Tê-sa-lô-ni-ca
22.   II Phi-e-rơ
5.      Công vụ các sứ đồ
14.    II Tê-sa-lô-ni-ca
23.   I Giăng
6.      Rô-ma
15.    I Ti-mô-thê
24.   II Giăng
7.      I Cô-rinh-tô
16.    II Ti-mô-thê
25.   III Giăng
8.      II Cô-rinh-tô
17.    Tít
26.   Giu-đe
9.      Ga-la-ti
18.    Phi-lê-môn
27.   Khải huyền

Tân Ước cũng có Thứ kinh (Apocrypha) tuy nhiên vì không có giáo hội nào nhìn nhận các quyển sách nầy nên ít người biết đến. Chúng ta không đề cập đến Thứ kinh Tân Ước nơi đây.

II.  Tác Giả:

Cơ-đốc nhân tin rằng Ðức Chúa Trời đã dùng những người viết hay trước giả để truyền đạt lời của Ngài và chính Ngài là tác giả của cả quyển Kinh Thánh. Tuy rằng có vài quyển sách mà chúng ta không biết rỏ người viết là ai, cơ đốc nhân tin quyết rằng "Cả Kinh Thánh là được Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình" (II Ti-mô-thê 3:16) vì thế chúng ta cám ơn Chúa nhận lãnh lời Ngài trong Kinh Thánh dù rằng sau nầy chúng ta có thể biết xuất xứ của một quyển sách nào đó một cách tường tận hơn sự hiểu biết hiện tại.

1. Năm sách luật pháp: Ða số các học giả cho rằng Môi-se đã viết các quyển sách Sáng thế ký, Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân số ký và Phục Truyền luật lệ ký, các sách nầy được viết vào khoản năm 1400 T. C., trước khi ông mất. Ðoạn cuối của Phục Truyền luật lệ ký nói về sự qua đời của Môi-se, có lẽ được Giô-suê, người  kế vị của ông viết. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh
2. Các sách lịch sử:
a.      Giô-suê là người viết sách mang tên ông, ông qua đời khoản 1375 T. C., đó cũng là thời điểm mà quyển sách nầy được hoàn tất.
b.     Người ta không biết rõ ai đã viết Các quan xét. Có lẽ  sách nầy được hoàn tất vào đời vua Sau-lơ hay Ða-vít năm 1050-1000 T. C..
c.      Trước giả của sách Ru-tơ không được biết rỏ, tuy nhiên nhiều người cho rằng Sa-mu-ên đã viết quyển nầy. Sách được viết vào đời vua Ða-vít hay sau nữa vì đoạn cuối của sách có đề cập đến Ða-vít.
d.     Sa-mu-ên là người đã viết hai sách mang tên của ông. Các sách nầy kể lại từ khi Sa-mu-ên ra đời cho đến khi Áp-sa-lôn nổi loạn vào năm 975 T. C..
e.      Lúc đầu người ta cho rằng tiên tri Giê-rê-mi đã viết hai quyển sách Các Vua. Về sau người ta tin rằng có lẽ do một tiên tri không được biết tên, đồng thời với Giê-rê-mi, viết lúc đế quốc Ba-by-lôn xâm chiếm Giê-ru-sa-lem vào năm 587 T. C.
f.       Thầy tế lễ E-xơ-ra là người viết bốn sách Sử ký I, II, E-xơ-ra và Nê-hê-mi vào cuối thế kỷ thứ năm T. C. (Nê-hê-mi có góp phần vào việc biên chép sách Nê-hê-mi đoạn 1-7 và 11-13). Trong các bản Kinh Thánh cổ, 4 sách nầy là một.
g.     Chúng ta không biết rõ ai là trước giả của Ê-xơ-tê. Sách được viết vào khoản cuối đời vua A-suê-ru, 465 T. C.. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

3. Các sách thơ văn:
a.      Chúng ta không biết ai là trước giả sách Gióp. Quyển sách nầy được viết vào khoản năm 2000 T. C., có người cho rằng sách được viết vào khoản năm 950 T. C..
b.     Ða-vít là trước giả sách Thi Thiên, ngoại trừ các đoạn sau đây: Ðoạn 72 và 127 do Sa-lô-môn viết; Ðoạn 90 của Môi-se (năm 1500 T. C.); Ðoạn 50 và đoạn 73-83 do A-sáp viết; Các đoạn 42, 44-49, 84-85, 87-88 do con cháu Cô-rê viết; Ðoạn 88 do Hê-man (cùng với con cháu Cô-rê); Ðoạn 89 do Ê-than viết. Thi Thiên 137 là đoạn được viết vào năm 538 T. C. nói đến sự buồn thảm của những kẻ bị đày qua Ba-by-lôn.
c.      Sa-lô-môn là trước giả sách Châm Ngôn, ông viết sách nầy vào khoản năm 970-931 T. C.. Ðến năm 720 T. C., người ta thêm vào các đoạn 25-29. Ðoạn 30 do A-gu-rơ viết và đoạn 31 do vua Lê-mu-ên soạn.
d.     Sa-lô-môn là người viết sách Truyền đạo cùng một lúc với Châm ngôn vào khoản năm 970-931 T. C.. Nhiều học giả cho rằng cách dùng từ ngữ và câu văn cho biết sách được viết sau thời gian trên.
e.      Nhã ca cũng do Sa-lô-môn viết vào năm 965 T. C..
Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

4. Các sách đại tiên tri:
a.      Tiên tri Ê-sai, con A-mốt, viết quyển sách mang tên ông. Sách được viết vào năm 740-700 T. C..
b.     Tiên tri Giê-rê-mi là trước giả của sách Giê-rê-mi, ông thường đọc cho thơ ký của ông là Ba-rúc chép lại. Ba-rúc hoàn tất sách nầy sau khi Giê-rê-mi chết năm 585 T. C..
c.      Ca thương không đề cập đến ai là người biên soạn. Nhiều học giả cho là Giê-rê-mi viết sách nầy vào năm 587 hay 586 T. C. trước khi Giê-ru-sa-lem rơi vào tay người Ba-by-lôn.
d.     Tiên tri Ê-xê-chi-ên là người viết sách mang tên ông lúc dân Do thái bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn. Sách bắt đầu lúc vua Giê-hô-gia-kin bị bắt năm 597 T. C., Giê-rê-mi làm tiên tri cho đến năm 573 T. C.
e.      Tiên tri Ða-ni-ên viết sách mang tên ông vào năm 536 T. C.. Nhiều học giả hoài nghi về điểm nầy. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

5. Các sách tiểu tiên tri:
a.      Tiên tri Ô-sê, con Bê-ê-ri làm tiên tri 40 năm từ năm 755 - 715 T. C.. Ông là người viết sách Ô-sê.
b.     Tiên tri Giô-ên, con Phê-thu-ên viết sách Giô-ên. Vì sách không có đề cập đến vị vua nào nên chúng ta không biết rỏ sách được viết lúc nào, có thể vào năm 835-796 T. C.
c.      Tiên tri A-mốt, người chăn ở Thê-cô-ra viết sách A-mốt sau năm 760 T. C.
d.     Tiên tri Áp-đia viết sách Áp-đia sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ vào năm 687 T. C.
e.      Tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai viết sách Giô-na vào năm 760 T. C.
f.       Tiên-tri Mi-chê, người Mô-rê-sết, làm tiên tri từ năm 750-687 T. C.. Ông viết sách Mi-chê.
g.     Tiên tri Na-hum, người Ên-cốt, viết sách Na-hum vào năm 612 T. C. sau khi thành Ni-ni-ve bị chiếm và hủy diệt.
h.     Tiên tri Ha-ba-cúc nói về sự hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem vào năm 587 T. C., sách được viết vào năm 600 T. C.
i.       A-ghê có nghĩa là vui vẽ, hoan lạc. A-ghê nói tiên tri làm phấn khởi dân sự sau khi bị đày ở Ba-by-lôn trở về quê vào năm 520 T. C. Ông viết sách A-ghê.
j.       Xa-cha-ri, con Ba-ra-chi, viết sách Xa-cha-ri từ năm 520-475 T. C.. Có người cho rằng đoạn 9 đến 14 được thêm vào 30-40 năm sau bởi một người khác không rỏ tên.
k.     Tiên tri Ma-la-chi đã viết quyển sách mang tên ông vào năm 450 T. C. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

6.     Bốn sách phúc âm:
a.      Chúng ta không biết trước giả của Ma-thi-ơ là ai. Nhiều học giả cho rằng chính Ma-thi-ơ viết sách nầy, có lẽ vào năm 45 S. C..
b.     Nhiều người cho rằng Mác là trước giả của quyển sách mang tên ông. Sách được viết vào những năm cuối của thập niên 60.
c.      Sách Lu-ca được viết cho Thê-ô-phi-lơ, một quan La-mã, vào những năm đầu của thập niên 70 S. C., có lẽ do chính ông Lu-ca viết.
d.     Chúng ta không biết ai viết sách Giăng. Có người cho Giăng đã viết sách nầy vào khoản cuối thế kỷ thứ nhất.
Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

7.   Công vụ các sứ đồ: Trước giả của sách Công vụ các sứ đồ và sách Lu-ca là một (Lu-ca), được viết cho Thê-ô-phi-lơ, một quan La-mã, vào khoản năm 70-80 S. C.

8. Thơ tín Phao-lô: Các sách nầy đều do Phao-lô viết.
a.      Rô-ma, Cô-rinh-tô I và II được viết vào năm 56 hay 57 S. C.
b.     Chúng ta không biết Ga-la-ti được viết lúc nào, có lẽ là vào năm 53 S. C. hay là sau đó nữa.
c.      Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se và Phi-lê-môn được viết khi ông bị ở tù vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 S. C..
d.     Tê-sa-lô-ni-ca I và II vào năm 50 hay 51 S. C.
e.      Ti-mô-thê I, II và Tít, còn gọi là các Thơ Tín Mục Vụ, được viết vào khoản năm 65 S. C. trong cuộc hành trình thứ tư của Phao-lô giửa hai lần bị tù ở La mã.
Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

9.     Các sách thơ tín khác:
a.      Thơ Hê-bơ-rơ không cho chúng ta biết ai là người viết. Có thể là một trong những nhân vật sau đây: Lu-ca vì cách hành văn và ông cũng biết nhiều về sự dạy dỗ của Phao-lô; A-bô-lô là người Do thái ở A-léc-xăn-đơ hoặc Ba-na-ba là người Lê-vi, cả hai đều rất thông thạo Kinh Thánh; Si-la, Phi-líp, A-qui-la, Bê-rít-sin (vợ của A-qui-la). Sách được viết trước năm 70 S. C.
b.     Gia-cơ là em của Chúa Jêsus là trước giả sách Gia-cơ. Sách được viết vào khoản năm 45-48 S. C., cũng có thể vào năm 60 S. C. vì ông dựa rất nhiều vào các thơ tín của Phao-lô trước khi ông chết vào năm 62.
c.      Si-môn Phi-e-rơ, sứ đồ của Ðức Chúa Jêsus Christ là trước giả hai quyển sách Phi-e-rơ được viết vào năm 64 hay 65 S. C.
d.     Trước giả của Giăng I, II và III là một trưởng lão (II Giăng 1) không biết tên, ông viết "Hỡi con cái bé mọn ta" (I Giăng 5:13)... Các sách nầy được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất, cùng thời với Sứ đồ Giăng.
e.      Giu-đe, em của Gia-cơ (có lẽ là em của Chúa Jêsus) đã viết sách Giu-đe vào khoản cuối thế kỷ thứ nhất.
10. Khải huyền: Sứ đồ Giăng viết quyển sách nầy khi bị đày ở đảo Bát-mô ven bờ biển Tiểu Á (Thổ nhỉ kỳ). Sách được viết vào những năm cuối cùng của Ðế Quốc La mã (81-96 S. C.). Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

III.  Ngôn Ngữ Nguyên Bản:
Ngoại trừ vài đoạn viết bằng tiếng Aramaic, Cựu Ước được viết bằng Hy-bá-lai (Hebrew). Hy-bá-lai là một ngôn ngữ rất phong phú thời bấy giờ với các thành ngữ, lời lẽ đầy màu sắc rất thích hợp cho việc ghi chép lịch sử, thơ văn, luật pháp của Cựu Ước. Tiếng Hy-bá-lai là một trong các cổ ngữ rất xưa, ngôn ngữ nầy được bảo tồn một cách kỳ diệu và được hiện đại hóa để làm ngôn ngữ chánh của dân Do-thái ngày nay.

Tiếng Hy-bá-lai được viết từ phải sang trái, theo nguyên bản thời xưa chỉ gồm có 22 phụ âm mà thôi. Người đọc phải cho vào các nguyên âm tùy theo kiến thức ngôn ngữ của mình. Vì thế những bản Kinh Thánh Hy-bá-lai được trường tồn qua nhiều thế kỷ. Chỉ có các nguyên âm thay đổi theo thời gian và địa phương.

Nhiều học giả Do-thái thuộc phái Masoretes (do chữ masora, masorah có nghĩa là truyền thống, cổ truyền) đã tìm cách bảo tồn cách đọc chính xác bằng cách thêm vào các chấm, các gạch ở trên, dưới hay là bên trong 22 mẫu tự để chỉ cách phát âm. Các hoạt động của nhóm học giả nầy bắt đầu vào thế kỷ thứ 2 T. C. đến thế kỷ thứ 8 S. C..

Bản Kinh Thánh cổ truyền (hay bản bằng chữ Maroretes) đã được bảo tồn cho đến ngày nay một cách huyền bí. Vào năm 1947, tại Qumran ở bờ phía tây của biển chết, người ta đã tìm được di tích của các cuộn Kinh Thánh cổ (The Dead Sea Scrolls), các sách nầy được viết vào khoảng năm 200 T. C. đến năm 68 S. C.. Những cuộn Kinh Thánh nầy đã xác nhận sự chính xác của các bản Kinh Thánh ngày nay.

Trong khi đó, Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp, gọi là koine, đây là ngôn ngữ thông dụng của thời đại bấy giờ[2]. Ngôn ngữ koine có hai loại: Văn chương và phổ thông. Bốn quyển sách phúc âm được viết bằng tiếng koine phổ thông đặc biệt với ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Sau đó, các Giáo phụ chuyển sang dùng tiếng koine văn chương. Mặc dù được viết bằng tiếng phổ thông, các sách Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, II Phi-e-rơ đã đạt đến trình độ văn học rất cao.

IV.  Các Bản Dịch Kinh Thánh.
(Xin xem thêm chi tiết trong Thánh Kinh Từ Ðiển của Giáo sĩ Cadman)
Vì Kinh Thánh không còn lại một nguyên bản nào, chỉ tìm được các bản sao chép rất xưa mà thôi, nên các bản đó, có giá trị như nguyên bản, đã được gìn giữ rất cẩn thận trong những viện bảo tàng. Nên nhớ nguyên bản rất cổ của phần thứ nhất Cựu Ước đã được viết cách nay độ 3.400 năm và phần cuối cùng Tân Ước được viết xong độ 1.900 năm trước đây. Chắc Chúa không cho để lại một tờ hoặc cuốn nào của nguyên bản, sợ gây cớ vấp phạm cho người ta thờ lạy.

Kinh Thánh đã được dịch sang ngoại ngữ kể từ thế kỷ thứ 5 T. C., trong đời đấng tiên tri E-xơ-ra, khi dân Do-thái trở về nước sau thời gian bị lưu đài 70 năm tại Ba-by-lôn. Vào thời nầy có nhiều cộng đồng người Do-thái nói tiếng Aramaic, vì vậy cần phải dịch Kinh Thánh để họ hiểu. Lúc bấy giờ, khi nhóm họp trong đền thờ, có một người đọc Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá-lai và người đứng kế bên dịch lại bằng tiếng Aramaic, giống như tình trạng nhiều Hội thánh Việt Nam ở hải ngoại.

Bước sang giai đoạn đế quốc La Mã, văn hóa thế giới chịu ảnh hưởng Hy Lạp. Rất nhiều cộng đồng Do Thái sống trong vùng nói tiếng Hy Lạp, đưa đến nhu cầu dịch Kinh Thánh ra tiếng nầy.
Vào khoảng năm 200 T.C., vua Ptolemy của Ai-cập chọn 6 học giả từ mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên tức 72 vị (được gọi vắn tắt là bảy mươi) đến Alexandria, Ai Cập để dịch Ngũ Kinh của Môi-se ra tiếng Hy Lạp cho thư viện nổi tiếng gồm trên 200.000 quyển sách của ông. Bản dịch nầy được gọi là bản dịch Bảy Mươi hay Septuagint, chỉ gồm 5 quyển sách luật pháp Mộ-se mà thôi. Về sau các sách khác của Cựu Ước được dịch tiếp ra tiếng Hy Lạp, bởi các học giả khác, cũng được xáp nhập vào bản Bảy Mươi. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Các tín đồ đầu tiên nói tiếng Hy Lạp, nên bản Bảy Mươi (Septuagint) rất thông dụng. Khi Cơ-đốc giáo bành trướng ra nhiều quốc gia khác, Kinh Thánh đã được dịch ra tiếng Syrie và một bản dịch ra tiếng La-tinh được hoàn thành vào khoảng 100 S. C., bản thế kỷ thứ 2.
Năm 383 S. C. Giáo Hoàng Saint Damasus I nhờ Giáo phụ Saint Jerome nhuận chánh bản dịch La-tinh. Bản dịch nầy hoàn thành vào năm 405 S.C., được gọi là bản Vulgate, có nghĩa là thông dụng (bản thế kỷ thứ 5).

Bản Kinh Thánh Do Thái giáo (Hebrew Bible) hiện nay được in từ bản Masoretes năm 1088 S. C., bản nầy hiện do thư viện thành phố Saint Petersburg giữ. Bản Masoretes cổ nhất là bản Aleppo vào đầu thế kỷ thứ 10.

Sau đây là các bản cổ xưa còn tồn tại đến ngày nay:
1.   Bản Sinaiticus: Là bản Bảy Mươi do Tischendorf tìm ra trong nhà dòng Thánh Catherine trên núi Si-na-i vào năm 1859. Bản nầy được chép vào thế kỷ thứ 4. có Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và cả Tân Ước viết rất cẩn thận trên da, hiện  được gìn giữ tại viện bảo tàng Luân đôn. Các tài liệu nầy được xuất bản thành bốn cuốn sách vào năm 1867, đây là bản cổ nhất còn lại.
2.   Bản Vaticanus: Bản nầy được chép vào thế kỹ thứ 4, và được Giáo hoàng Nicolas V để tại thư viện thành La-mã.
3.   Bản Alexandrinus: Bản nầy được chép vào thế kỷ thứ 5, và được Cyril, trưởng lão thành Constantinople, dâng cho Anh Hoàng Charles I, vào năm 1627 và được để tại viện bảo tàng nước Anh.
4.   Bản Éphraemi, tại thư viện Paris (được viết chồng lên bài của Thánh Éphraem).
5.   Bản Bazae: Bản song ngữ được viết bằng tiếng Hy Lạp và La-tinh đối ngang nhau, giữ trong trường đại học Cambridge nước Anh. Théodore de Bèze, bạn của Jean Calvin, tìm ra năm 1560 trong nhà dòng Thánh Irénée, tại Lyons.
6.   Bản Claromontanus, thế kỷ thứ 6, để tại Paris.
7.   Các bản cổ khác theo thứ tự của các chữ cái (Alphabet):
a.   Các bản Arabic.
b.   Bản Aramaic Targum (2 bản chánh là Palestinian Targum và Babylonian Targum) là các bản diển ý được dịch sau khi dân Do Thái từ Ba-by-lôn trở về.
c.   Bản Armenian: Ðược in và xuất bản lần thứ nhất tại Amsterdam năn 1666.
d.   Các bản Egyptian: Bằng tiếng Memphic, tiếng Thébaide hay các thổ ngữ khác.
đ.   Bản Ethiopic: Bằng thổ ngữ cổ Axum.
e.   Bản Gothic: Ðược dịch ra vào cuối thế kỷ thứ 4.

g.   Bản La-tinh:
1g. Bản La-tinh cổ hoặc bản Bắc Phi thế kỷ thứ 2, dùng tiếng La-tinh bình dân cho người địa phương.
2g. Bản Itala hoặc bản Italian, thế kỷ thứ 4, dùng tiếng La-tinh của người La-mã, văn chương hơn.
3g. Bản Vulgate thế kỷ thứ 5 do Jerome hiệu đính. Ðến năm 1455, khi có máy in, quyển sách đầu tiên được in ra là quyển Kinh Thánh La-tinh Vulgate sau khi được hiệu đính một lần nữa và được gọi là bản Vulgate thế kỷ thứ 15.
h.   Bản Samaritan.
i.    Bản Slavonic: Bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 9, sau nhiều thế kỷ nữa mới xong.
k.   Bản Syriac (Peshitta): Ðược dịch từ những thế kỷ đầu tiên sau Thiên Chúa.

Các bản dịch hiện đại gồm có :
Ỉ        Bản tiếng Anh đầu tiên do John Wycliffe dịch vào thập niên 1380.
Ỉ        Bản tiếng Anh của William Tyndale, năm 1525 gồm Tân Ước và năm 1531 Cựu Ước.
Ỉ        Bản dịch Kinh Thánh ra tiếng Ðức từ bản Vulgate của Luther. Tân Ước được xuất bản năm 1522, cả Kinh Thánh năm 1534, và được hiệu đính năm 1544. Kinh Thánh Ðức đã giúp đỡ nhiều trong sự cải chánh Hội Thánh và cũng dùng để dịch ra tiếng Thụy Ðiển, Hòa Lan, Ðan Mạch, Phần Lan, và Ái Nhĩ Lan.
Ỉ        Năm 1604, vua James I của Anh quốc lập một hội đồng gồm 50 học giả nhuận chánh lại các bản dịch Anh ngữ đã có từ trước. Công việc được hoàn thành vào năm 1611 và được gọi là bản King James (KJV) hay là "Authorized Version". Với lời văn hoa mỹ, bản dịch đã trở thành một áng văn tuyệt tác trong kho tàng văn chương của nước Anh. Dù về sau Giáo Hội Anh Quốc cho nhuận chánh lại bản King James, công trình được hoàn tất vào năm 1895 và được gọi là bản Revised Version, nhưng đa số Hội thánh và tín đồ vẫn còn dùng bản King James cho đến ngày nay[3].
Ỉ        Nhờ các bản sao cổ mới tìm được; Brian Walton xuất bản một Tân Ước tiếng Hy Lạp, năm 1657.
Ỉ        Kinh Thánh toàn bộ được in bằng tiếng Pháp vào năm 1487; tiếng Ý vào năm 1530-32; tiếng Ðức vào năm 1534; tiếng Anh vào năm 1535; tiếng Thụy Ðiển vào năm 1541; tiếng Hòa Lan vào năm 1560; tiếng Tây Ban Nha vào năm 1569-1602; tiếng Ái Nhĩ Lan vào năm 1584; tiếng Phần Lan vào năm 1642; tiếng Ấn Ðộ (Carey) vào năm 1834; tiếng Trung Hoa (Morison) vào năm 1834; tiếng Việt Nam với La-tinh vào năm 1916; tiếng Việt Nam vào năm 1926; tiếng Ai-lao vào năm 1930; tiếng Cam-bô-chia (Tân Ước) vào năm 1934.

Vào thế kỷ thứ 20, có rất nhiều bản dịch Anh ngữ dụng ý thay thế các bản dịch xưa, văn chương đã lỗi thời. Các bản nầy gồm có :
à        The Bible: Bản dịch tiếng Mỹ, hoàn thành năm 1931.
à        Revised Standard Version của Giáo Hội Church of Christ, năm 1957.
à        Bản Kinh Thánh Jerusalem do Giáo Hội Công Giáo năm 1966 tại Anh Quốc.
à        The New English Bible hoàn tất vào năm 1970.
à        The New American Bible của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, năm 1970.
à        The New American Standard Bible năm 1971.
à        The Good News Bible của Thánh Kinh Hội Hoa Kỳ, năm 1976.
à        The New International Version (NIV), Thánh Kinh Hội Nữu Ước, năm 1976.
à        The Common Bible, năm 1973, đây là bản dịch Anh ngữ đầu tiên được cả ba Giáo Hội Tin Lành, Công Giáo, và Chính Thống Giáo Hy Lạp (Greek Orthodox) công nhận.
à        The New Revised Standard Version, của The National Council of Churches,  được hoàn tất vào năm 1990, cũng được các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo thừa nhận. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

V.  Kinh Thánh Tiếng Việt Nam. [4]

Theo sử liệu thì vào năm 1533, có một người Tây phương được phép rao giảng đạo Thiên Chúa ở tỉnh Nam Sơn (Nam Ðịnh). Sau đó nhiều Giáo sĩ Công Giáo Âu châu đã đến Việt Nam để truyền giáo. Mãi cho đến năm 1624, có một giáo sĩ người Pháp, một học giả tài ba lỗi lạc, là Cha Ðắc Lộ hay Alexandre de Rhodes đến Việt Nam. Ông hoạt động cả miền bắc lẫn miền nam trong 22 năm. Ông thành thạo ngôn ngữ, lịch sử, địa lý Việt Nam, và đã hoàn tất việc chuyển đổi chữ nôm ra tiếng Việt dùng mẫu tự La-tinh. Với vài thay đổi và tu chỉnh sau này, ngôn ngữ do ông soạn thảo đã trở thành quốc ngữ vào cuối thập niên 1910. Trong giai đoạn phôi thai của loại chữ viết mới, các Linh Mục đã bắt đầu viết các sách từ vựng Việt Nam La-tinh... Vào năm 1872, Giáo Hội Công Giáo phát hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Các bản nầy được dành riêng cho hàng giáo phẩm sử dụng mà thôi.
Khi đạo Tin Lành đến Việt Nam vào năm 1911, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Vào năm 1916, Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (C&MA) bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh[5] sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình do Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (United Bible Societies) xuất bản. Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có nhà văn Phan Khôi, ông bà Giáo Sĩ William C. Cadman, Giáo Sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có: cụ Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Ðẳng Ðông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.
Năm 1971, nhà xuất bản Ra Khơi tại Sài Gòn phát hành Kinh Thánh toàn bộ do Linh Mục Trần Ðức Huân thực hiện, với sự giúp đỡ của Ủy Ban Phiên Dịch do Giám Mục Trương Cao Ðại hướng  dẩn.
Năm 1976, toàn bộ Kinh Thánh do Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn thực hiện được hoàn tất. Phần Tân Ước trong bản dịch này được phiên dịch từ nguyên văn Hy Lạp. Tuy nhiên, vì tình hình chính trị tại Việt Nam không thuận lợi cho việc xuất bản Kinh Thánh, nên các Linh Mục dòng Chúa Cứu Thế tại La Verne, California đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch nầy vào năm 1980.
Năm 1982, Hội Living Bible International tại Hong Kong phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Mục Sư Tiến Sĩ Lê Hoàng Phu thực hiện. Bản dịch mới này thường được đọc giả biết đến dưới tên Thánh Kinh Tân Ước Diễn Ý.
Cũng vào đầu thập niên 1980, Giáo Hội Công Giáo phát hành bản dịch Kinh Thánh Tân Ước do Hồng Y Trịnh Văn Căn thực hiện, tại Hà Nội. Bản dịch này được Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam tái bản lần thứ nhất vào năm 1985 tại Orange County, California.
Vào năm 1987, Vietnamese Bible Inc. được thành lập tại Midland, Texas, với mục đích thực hiện một bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ mới. Quyển Tân Ước đã được phát hành vào năm 1996. Toàn bộ Kinh Thánh dự trù sẽ được hoàn tất vào năm 2000.
Năm 1994, Tòa Tổng Giám Mục tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã xuất bản 30.000 Thánh Kinh Tân Ước do Linh Mục Hoàng Ðắc Ánh và Linh Mục Trần Phúc Nhân phiên dịch do Thánh Kinh Hội Quốc Tế (International Bible Societies) bảo trợ và xuất bản.
Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh Việt Nam đã được tái bản tại Ðà Nẵng, với vài hiệu đính nhỏ từ bản Kinh Thánh năm 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Ðây là bản Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành Việt Nam in và phát hành tại quê nhà sau năm 1975, đến nay tổng số phát hành được trên 100.000 quyển.
Ngoài dự án phiên dịch Kinh Thánh sang Việt Ngữ của Vietnamese Bible Inc., nhiều Mục Sư cũng đang dịch các phần Kinh Thánh rời rạt với các sắc thái khác nhau, thích hợp cho các thành phần đọc giả Việt Nam ngày nay. Hiện nay, Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS) cũng đang bảo trợ một ban dịch thuật tại Việt Nam trong dự án hiệu đính bản Kinh Thánh năm 1926 để thỏa mãn nhu cầu ngôn ngữ ở quê nhà vì tiếng Việt Nam đã thay đổi nhiều trong một phần tư thế kỷ vừa qua. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

VI.  Kết Luận:

Kinh Thánh là một bộ sách gồm 66 quyển được viết bởi nhiều người từ vua, quan, các nhà lãnh đạo dân Do Thái, đến y sĩ (thầy thuốc), người thâu thuế, người chài lưới, người chăn chiên... trong thời gian hơn 1500 năm. Tuy vậy lời lẽ trong Kinh Thánh từ đầu tới cuối đều oai nghiêm giống nhau như của một tác giả độc nhất. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều dữ kiện xác nhận sự trung thực của Kinh Thánh. Bạn đang đọc Lịch sử của quyển Kinh Thánh

Kinh Thánh là quyển sách đầu tiên được in ra khi loài người mới phát minh máy in vào năm 1455. Kinh Thánh cũng là một quyển sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất, số ấn hành từ trước đến nay nhiều vô số không thể kiểm kê chính xác được.

Nhờ Kinh Thánh mà nhiều sắc tộc trên thế giới có được một ngôn ngữ viết và tiếng nói, văn hóa họ được phong phú thêm hơn. Quyển Kinh Thánh còn có khả năng thay đổi đời sống vô số người từ tuyệt vọng, đau khổ đến hy vọng, hạnh phúc.
Tuy nhiên mục tiêu tối hậu của Kinh Thánh là giới thiệu cho chúng ta Chúa Cứu Thế Jêsus trong chương trình của Thượng Ðế cho loài người, nối liền mối tương giao giữa chúng ta với Ðấng Tạo Hóa.

Đọc thêm bài viết nữa tại đây!

*Xem thêm bài viết:






Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


SỨC KHỎE- ÐỜI SỐNG

Xem tất cả Sức khoẻ đời sống »

SẮC ÐẸP

Xem tất cả Sắc đẹp »

GIA CHÁNH

Xem tất cả Gia chánh »

MẸ & BÉ

Xem tất cả Mẹ và bé »