Hôm nay:

BÀI VIẾT- BÀI LUẬN- GHI CHÚ

Xem tất cả Các bài luận- viết »

ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC

Xem tất cả Đời sống Cơ Đốc»

CHUYÊN MỤC HỎI ĐÁP

Xem tất cả Câu hỏi đáp »

.

An tử - Trợ tử trong Cơ Đốc Giáo

Đăng bởi Bùi Qúy Đôn | Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019









VẤN ĐỀ AN TỬ- TRỢ TỬ TRONG CƠ ĐỐC GIÁO


Tiến sĩ/ thạc sĩ/ mục sư Bùi Qúy Đôn

Dẫn Nhập
          Trong thời đại ngày hôm nay, cùng với tốc độ phát triển vượt bậc của khoa học thì  bệnh tật cũng xuất hiện càng ngày càng nhiều. Có những căn bệnh phải điều trị lâu năm, có những căn bệnh phải chấp nhận sống đời sống thực vật. Bệnh vô phương cứu chữa vô hình chung đã trở thành gánh nặng không những cho bản thân người bệnh mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới gia đình và sau cho cả xã hội nói chung. Rất nhiều gia đình con cái, vợ chồng chịu điêu đứng đau khổ, khánh kiệt về tài chính kinh tế, khổ sở vừa về tinh thần lẫn vật chất, … nhưng bệnh tật không có gì chuyển biến hơn. Một vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta có tìm đến giải pháp cho điều đó bằng an tử và trợ tử không. Những cuộc tranh luận về an tử, trợ tử luôn là một trong những chủ đề nóng hổi được nhắc đến trong luân lý đạo đức xã hội ngày nay. Với những khái niệm và sự nhìn nhận về quyền quyết định cá nhân, hành vi giết người nhân đạo đã và đang làm cho không ít người Cơ Đốc đã bị ảnh hưởng, thậm chí còn bày tỏ quan điểm đi ngược với đạo đức Cơ Đốc. Họ thường lập luận rằng: “Đằng nào cũng phải chết, tại sao tôi phải chịu đau đớn trong nhiều ngày, hay trở thành gánh nặng cho bản thân, gia đình mà trong khi đó tôi có thể chọn cho mình cái chết thanh thản dễ chịu hơn, hầu chấm dứt sự đau đớn ấy được mà? Hay lập luận rằng: có cần kéo dài thời gian mà làm tăng những đau khổ cho bệnh nhân không? Có nên cho bệnh nhân sống sót nhưng phải gánh chịu những di chứng nặng nề và thân nhân họ đau khổ tột cùng hay không?” Trong bài viết này, tôi cố gắng  bày tỏ quan điểm cá nhân của mình về vấn đề an tử - trợ tử dưới lăng kính đạo đức học Cơ Đốc và giải pháp cho vấn đề này theo niềm tin trong Kinh Thánh.
I. Định Nghĩa An Tử- Trợ Tử
1. An tử là gì?
“An tử” trong tiếng Hy lạp là euthanasia; eu có nghĩa là tốt, cao quý và thanasia có nghĩa là chết, hiểu gần nghĩa nhất là “cái chết tốt” và thường được dịch hiểu là “cái chết êm ái”. Cái chết này nhằm nói đến “một hành vi làm cho chết nơi những người đau bệnh được chết một cách êm ái, chết một cách không đau đớn”[1]  do bệnh tật (bệnh tật nan y, bệnh quái ác, bệnh vô phương cứu chữa …) với mục đích xóa bỏ, hay giảm bớt mọi đau khổ cho bệnh nhân cũng như gia đình, xã hội. Cái chết được gây ra đó có thể được phân biệt như sau:
a) An tử tự nguyện (voluntary euthanasia)
Tự nguyện là xuất phát từ ý muốn của mình, tự mình muốn làm, không phải bị thúc ép, bắt buộc. Như vậy an tử tự nguyện là bệnh nhân yêu cầu xin được cái chết có sự trợ giúp trong khi đang được chăm sóc y tế, trong khi đó bác sĩ thực thi tin rằng bệnh nhân có lý do chính đáng để xin được chết. “Đây đúng là tự nguyện vì việc giết chết được thực hiện thể theo yêu cầu của bệnh nhân, và bác sĩ tin rằng bệnh nhân có lý do chính đáng để được kết liễu mạng sống do tình trạng tâm lý và sức khoẻ hiện nay hay ở tương lai tiên liệu được.”[2]
b) An tử không tự nguyện (involuntary euthanasia)
An tử không tự nguyện là bệnh nhân không hề bày tỏ ước muốn, cũng không đưa ra được bằng chứng vững chắc nào cho thấy mạng sống của người ấy cần phải được kết liễu, hay nằm ngoài ý muốn của bệnh nhân. Thi hành việc giết chết vì thương xót mà không có yêu cầu rõ rệt của bệnh nhân là phạm tội giết người.[3] 
Khác hơn với an tử không tự nguyện là an tử phi tự nguyện.
c) An tử phi tự nguyện  (non-voluntary euthanasia)
An tử phi tự nguyện là nói đến việc kết liễu những bệnh nhân không có khả năng hiểu biết, nhận biết được những gì đang xảy ra cho mình, ví dụ bệnh nhân đó là những người bị thiểu năng trầm trọng, bệnh nhân trong tình trạng sống thực vật vĩnh viễn, thậm chí bệnh nhân còn là trẻ sơ sinh nữa.
d) An tử thụ động
Nếu bệnh nhân chủ động tự nguyện thì tìm đến việc “không hành động” hay “không can thiệp” hoặc quyết định cho ngưng việc điều trị, để cho quá trình tử vong diễn ra một cách tự nhiên. Hoặc người thân gia đình với ý hướng gây ra cái chết cho bệnh nhân để chấm dứt đau khổ của họ đang phải chịu với hành động như trên thì cũng được gọi là an tử - đó là an tử thụ động[4]  hay “để cho chết” (allowing to die). Hành vi này được thực hiện cho các bệnh nhân vô phương cứu chữa, hoặc bị tổn thương não trầm trọng chìm trong hôn mê không có hy vọng mà biết chắc chắn là sẽ chết (“chắc sẽ chết” là theo lời khẳng định của bác sĩ).
Trong phần an tử thụ động, tôi xin được nói rõ tại đây rồi tôi sẽ đóng lại, không đề cập đến an tử thụ động nữa để tránh bị nhầm lẫn với ba (03) an tử trên. Vì ba (03) an tử trên (an tử tự nguyện, an tử không tự nguyện, an tử phi tự nguyện) đều liên quan có sự tham gia của bác sĩ; còn an tử thụ động là trực tiếp bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân nhận định quyết định chứ không có mức độ tham gia của bác sĩ.
An tử thụ động khác với quyết định khước từ việc “bám riết điều trị”. Không phải là an tử thụ động là từ chối tất cả các can thiệp của y khoa mà là khi nhận thấy những can thiệp này không còn tương hợp với tình trạng thực tế của bệnh nhân, không cân xứng với bất cứ kết quả nào mà người ta có thể chờ mong, và tạo ra gánh nặng quá mức trên bệnh nhân và gia đình. Trong những trường hợp như thế, khi biết cái chết đang gần kề và rõ ràng không tránh khỏi, với lương tâm của con cái cùng người thân trong gia đình có thể khước từ những biện pháp bám riết điều trị vốn chỉ bảo đảm kéo dài hơi thở sống thoi thóp phập phồng nặng nhọc và mong manh, nhưng vẫn phải tiếp tục những chăm sóc bình thường phải có cho bệnh nhân, phải cung cấp cho bệnh nhân những phương tiện điều trị thông thường cho đến khi bệnh nhân qua đời, đây chính là cách diễn tả sự hữu hạn của phận người. Kinh Thánh đã khẳng định về sự hữu hạn của phận từng người mà Đức Chúa Trời đã định trước như sau:
Ai là người sống mà sẽ chẳng thấy sự chết?” Thi Thiên 98: 48
“Theo như đã định cho loài người phải chết một lần Hê-bơ-rơ 9: 27
“Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài. Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người, và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở” Công vụ các sứ đồ 17: 25 - 26
          2. Trợ tử là gì?
“Trợ tử” - physician-assisted suicide/ Euthanasie là một từ xuất phát từ tiếng Hi Lạp, xuất hiện vào thế kỷ XVII, có nghĩa là “làm cho chết tốt đẹp” tức là một hành động dùng thuốc men hay một cách nào đó gây nên cái chết êm thấm cho một bệnh nhân không chữa được[5],  đó là cái chết với sự trợ giúp của bác sĩ cho bệnh nhân không còn hy vọng chữa trị, chết thì chưa chết, sống thì đau đớn, nên người ta giúp cho chết sớm hơn cái chết tự nhiên. Điều này cũng cho thấy rằng trợ tử cũng giống như an tử vì đều cần đến bác sĩ trong việc dẫn đến cái chết của người bệnh, nhưng khác biệt là ở mức độ tham gia của bác sĩ mà thôi. Với an tử, bác sĩ là người thực hiện “hành vi cuối cùng”, thường là một mũi tiêm quyết định.Ở đây, các bác sĩ đóng vai trò chính yếu, là nguyên nhân gây ra cái chết cho bệnh nhân. Còn với trợ tử, bệnh nhân đóng vai trò chính yếu khi họ là người thực hiện việc tiêm thuốc hay uống thuốc để gây ra cái chết, vai trò của bác sĩ chỉ là phụ thuộc.
Trợ tử không phải là an tử chủ động, bởi lẽ trong trợ tử có cấp độ trợ giúp từ bác sĩ. Việc trợ tử gồm có: cung cấp kiến thức y khoa; kê toa thuốc gồm các lại thuốc có khả năng gây chết người để bệnh nhân có thể dùng để an tử; cung cấp phương tiện thiết thực: như thuốc ở liều lượng gây tử vong hoặc chính thuốc độc; và theo dõi việc trợ giúp hoặc trực tiếp trợ giúp, ví dụ như kiểu trợ giúp của bác sĩ Jack Kevorkian.[6]  Như thế cơ bản của trợ tử là bệnh nhân tìm cách an tử cho bản thân mình với sự hỗ trợ của một người khác (bác sĩ) để đảm bảo cái chết diễn ra nhanh chóng và không đau đớn, cái chết êm ái.[7]
Trợ tử được phân biệt thành hai loại: thụ độngchủ động. Trợ tử thụ động (passive euthanasie) là việc dừng can thiệp điều trị, tắt thiết bị duy trì sự sống để người bệnh chết tự nhiên. Trợ tử chủ động (active voluntary euthanasie) là việc sử dụng thuốc làm cho người bệnh chìm vào hôn mê và chết dần đi. Trợ tử chủ động cũng được chia làm hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, người bệnh đã mất hẳn khả năng hiểu biết nhận thức, kéo dài đời sống là làm kéo dài mối thương tâm nên bác sĩ điều trị và người thân (hay người giám hộ hợp pháp) của họ dùng phương pháp nhẹ nhàng kết liễu đời sống – gọi là trợ tử tiêu cực (negative euthanasia). Trường hợp thứ hai, người bệnh còn đủ tỉnh táo, đủ khả năng nhận thức và chính họ yêu cầu được chấm dứt đau đớn bằng phương tiện trợ tử – gọi là trợ tử tự nguyện (voluntary euthanasia).
Như vậy, dù có khác biệt về chủ thể hành động là bác sĩ, nhưng cả hai trường hợp về cơ bản đều có sự yêu cầu trợ giúp của bệnh nhân và ý hướng nhắm đến là kết thúc mạng sống của người bệnh để loại bỏ đau khổ do bệnh tật gây ra[8].  Theo nghĩa này, an tử và trợ tự cũng không khác biệt nhau về bản chất,  đều là người ta giúp cho chết sớm hơn cái chết tự nhiên. Và cả an tử/ trợ tử có thể là trực tiếp (là tiêm thuốc, uống thuốc), hay gián tiếp (là không cung cấp thức ăn, nước uống, khí thở …). An tử/ trợ tử đều có thể do bệnh nhân xin (chủ động), hay do người đại diện, người coi, người nhà, người giám hộ hợp pháp muốn (thụ động).
3. Một số danh từ liên quan
Trợ giúp [an tử/ trợ tử] bằng y khoa (suicide médicalement assisté) là sự giúp đỡ, thường thường do một bác sĩ, một người bệnh đã quyết định chấm dứt cuộc sống của mình, bằng một liều thuốc độc hay một phương tiện khác. Hành động đưa tới cái chết là do người bệnh, nhưng người trợ giúp thường là bác sĩ y khoa.
Giảm đau cuối đời (sédation terminale), còn gọi là an tử/ trợ tử gián tiếp (euthanasie indirecte) là sự điều trị bằng thuốc giảm đau loại thuốc morphine, nhằm giảm đau cho bệnh nhân, nhưng có thể đưa tới cái chết do tai biến suy giảm hô hấp. Thật ra, ai cũng biết rằng tất cả là tùy liều thuốc, nhẹ hay nặng, mà hành động này mang tính chất giảm đau hay an tử/ trợ tử.
Điều trị thông thường [trong phần viết an tử thụ động] là điều trị không nhằm khỏi bệnh, mà nhằm thuyên giảm sự đau đớn cho bệnh nhân, về thể xác cũng như tinh thần.
Điều trị tới cùng hay còn gọi là “bám riết điều trị” (acharnement thérapeutique) [trong phần viết an tử thụ động] là điều trị bằng mọi cách, nhằm kéo dài cuộc sống, tuy biết rằng bệnh nhân ở trong tình trạng cuối đời.
Tình trạng sống thực vật (état végétatif) là một thực thể y khoa xuất hiện từ những năm 1960- 1970. Đó là một trong những hình thái tiến hoá của coma, sau khi não bị chấn thương nặng hoặc thiếu oxy. Người bệnh có vẻ tỉnh, mở mắt, nhưng không có hoạt động ý thức nào, không hề có bất cứ phản ứng nào với mọi kích thích. Người bệnh không nghe, không nói, không cử động, không ăn uống, không thể khống chế đại tiểu tiện và toàn bộ những phản ứng bản năng của người bệnh đó vẫn được duy trì là bao gồm sự co bóp của tim, hơi thở, phản ứng ho, nuốt, hắt hơi. Vì vậy người bệnh có thể sống liên tục nhiều năm là hoàn toàn phụ thuộc sự điều dưỡng trong đời sống hàng ngày bằng nước, sữa hoặc chất dinh dưỡng truyền qua ống thông. Sau một thời gian khoảng một năm, tình trạng có thể gọi là thực vật mãn tính (état végétatif chronique, persistent vegetative state), không còn hy vọng hoặc khó có thể đảo ngược lại tình thế, và có những biến chứng xảy ra do liệt giường lâu ngày.         
II. Luận Cứ Về Việc Thực Hiện An Tử- Trợ Tử
Có hai luận cứ lớn nhất để thực hiện an tử/ trợ tử đó là: quyền tự quyết lòng thương xót.
          1. Quyền Tự Quyết Cá Nhân
          Thứ nhất là liên quan đến việc quyền tự quyết cá nhân. Đây là luận cứ mạnh mẽ nhất, là tâm điểm để ủng hộ thực hiện an tử/ trợ tử. Cách diễn giải phổ biến hiện nay mang tính cách chủ nghĩa tự do vốn rất đề cao sự tự do và quyền của mỗi cá nhân. Họ nói rằng “sự sống của tôi là của tôi”, và họ cũng nói rằng “sự chết của tôi là của tôi”, tôi có quyền lựa chọn, định đoạt, không ai có quyền ngăn cản sự tự do của tôi. Họ cho đó là quyền của họ chứ không phải của ai cả mà phải cấm đoán.[9]  Với quyền này, con người có quyền tự do quyết định cuộc sống của mình mà không bị can thiệp hoặc bị sự chi phối của người khác. Quyền tự quyết cá nhân không chỉ trong những phạm vi của cuộc sống, mà còn cả quyết định về định mệnh của mình. Nói khác đi là tự quyết trong việc tự quyết định đoạt thân xác và kết thúc mạng sống của mình, kể cả việc kết liễu nó – “có quyền được chết” (right to die) - ý nói rằng quyết định kết liễu mạng sống là sự lựa chọn riêng tư, không gây hại cho ai cả. Người ta cho rằng, có quyền sống thì tại sao lại không có quyền được chết. Theo họ, quyền được chết của mỗi con người là một nhân quyền căn bản mà mỗi con người đều có cần được phải tôn trọng. Một trong những luận cứ chủ yếu là: chúng ta sẽ sống tốt đẹp hơn, sẽ chết tốt đẹp hơn, bởi lẽ chúng ta có quyền định đoạt và chúng ta đủ khả năng để kết liễu sự sống của mình khi nào chúng ta muốn, hầu chặn đứng những sự đau khổ không cần thiết đối với chính mình hay đối với gia đình của mình. Đó là nhân quyền căn bản mà mọi người đều có quyền ấy nên pháp luật không thể cấm chế để ngăn cản an tử và trợ tử. Và bác sĩ, với tư cách là người chăm lo cho lợi ích tốt đẹp nhất của bệnh nhân cùng tôn trọng quyền tự quyết đó nên phải ra tay trợ giúp bằng cách  giúp bệnh nhân an tử/ trợ tử.
Như vậy trong trường hợp bệnh tật phải chịu đựng những sự đau khổ tột cùng bởi bệnh vô phương cứu chữa gây ra thì người ta có quyền chọn cái chết để “giải thoát” khỏi khổ đau. Vì thế những người theo quan điểm này họ cho an tử/ trợ tử là những hành vi nhân ái nhằm giải toả đau khổ cho con người.
2. Lòng Thương Xót
          Quan điểm xót thường đi đôi song song với quan điểm mạnh mẽ về quyền tự quyết cá nhân. Ấy sẽ là tình thương nếu giúp cho người bệnh có một cái chết nhẹ nhàng, được thoát khỏi đau khổ và mất phẩm giá. Nếu những người này cứ sống trong tình cảnh bệnh tật “sống không ta sống”, sống đời sống thực vật, không giao tiếp với mọi người xung quanh, không có ý thức và hiểu biết, và còn làm cho người thân gia đình bị gánh nặng khổ sở kiệt quệ từ tinh thần đến tài chính. Họ cho đó là một cuộc sống không có giá trị và không đáng để tiếp tục sống. Hơn nữa đằng nào cũng phải chết thì tại sao phải chịu những sự đau đớn khổ sở đó kéo dài. Khi kết liễu sự sống của những người này, ta chẳng hề gây hại nhưng lại là sự trao tặng tình xót thương. Thành thử, theo quan điểm này, an tử/ trợ tử là hành vi từ bi, hành vi của nhân ái, hành vi của lòng thương xót nhằm đáp ứng được nguyện vọng trốn thoát khỏi đau khổ của người bệnh vô phương cứu chữa bằng cái chết nhẹ nhàng êm ái hơn và làm vơi bớt sự đau khổ của người bệnh cũng như gia đình. Chết như thế xứng với phẩm giá con người hơn là chết tự nhiên với những đau khổ dai dẳng kéo dài cùng những hệ lụy của nó. Theo nghĩa này, hành vi an tử/ trợ tử còn được hiểu là “giết vì xót thương” (mercy killing).
          3. Xoay quanh vấn đề trong an tử- trợ tử
          a) Quan điểm trong y học
          Hippocrates là một y sĩ Hy Lạp thời cổ đại (khoảng 460 – 370 Trước Công nguyên) được xem là ông tổ của nền y khoa phương Tây. Ông là người khởi xướng nền y khoa mang tính khoa học trong hoàn cảnh hệ thống y khoa của Hy Lạp thời đó. Bản gốc của lời thề Hippocrates được nhiều nước lưu giữ, và được gọi là “Lời thề Hippocrates” là lời tuyên thệ của các thầy thuốc khi vào nghề. Ở Việt Nam ta còn gọi là “Lời thề Y đức”. Lời tuyên thệ gồm có 6 điều thì điều 2 và điều 3 chép:[10]
Điều 2: Tôi sẽ kê toa vì lợi ích của bệnh nhân, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, và không bao giờ làm hại ai.
Điều 3: Tôi không bao giờ đưa thuốc giết người cho bất kỳ ai hỏi tôi và sẽ không tư vấn một kế hoạch như vậy; và cũng như thế tôi sẽ không cho bất kỳ người phụ nữ nào một dụng cụ phá thai. Nhưng tôi sẽ giữ tinh khiết cho đời tôi và cho nghề nghiệp của tôi.
Theo “Lời thề Hippocrates” này thì các bác sĩ tuyên thệ lời thề Hippocrates sẽ không chấp nhận việc giết bệnh nhân là đúng ngay cả khi bệnh nhân lựa chọn được chết. Đối với các bác sĩ, ít nhất, cuộc sống con người trong cơ thể sống đòi hỏi sự tôn kính – bởi chính bản chất tự nhiên của nó. Vì sự tôn kính không phụ thuộc vào thỏa thuận của con người hoặc sự đồng ý của bệnh nhân, xóa bỏ sự đồng ý tiếp tục sống của một người vẫn không tước đoạt được sự tôn kính đối với cơ thể sống của người đó. Nguyên tắc đạo đức sâu sắc nhất trói buộc quyền lực của bác sĩ không phải là quyền tự chủ hay tự do của bệnh nhân; cũng không phải là lòng trắc ẩn hay là ý định tốt của bác sĩ. Đúng hơn, chính phẩm giá và sức mạnh bí ẩn của đời sống con người, và do đó, Lời thề Hippocrates cũng gọi đây là sự thuần khiết và thánh thiện của cuộc sống và nghệ thuật, mà các bác sĩ đã thề nguyện tuân theo.[11]  Như vậy trong lời tuyên thệ này thì các bác sĩ, các nhà chuyên nghiệp y khoa được huấn luyện để chữa lành và bảo vệ sự sống chứ không phải để chấm dứt sớm sự sống.
Lời thề ông tổ của ngành y học của Hippocrate chống lại an tử/ trợ tử vào thế kỷ 5- 4.TCN thì Francis Bacon lên tiếng chủ trương hành động an tử/ trợ tử vào thế kỷ 17 trong một cuốn sách in năm 1623, Francis Bacon viết:
“Phận sự của người thầy thuốc không phải chỉ là chữa khỏi bệnh tật, mà còn làm vơi dịu những khổ đau do bệnh tật gây nên. Và không phải chỉ làm vơi dịu khổ đau và khỏi bệnh, mà còn đem lại cho bệnh nhân khi không còn hi vọng sống sót, một cái chết êm dịu và an lành. An tử như vậy là một phần không nhỏ của hạnh phúc”[12].
          Và năm 1920, một bác sĩ và một luật sư Đức, tên là Hoche và Binding, đồng xuất bản một cuốn sách trình bày quan điểm: “Một số bệnh nhân bị chứng nan y, bệnh tâm thần và trẻ con dị dạng, sống những cuộc sống “không đáng sống”, vì thế đem lại cái chết cho họ là một lối điều trị nhân đạo, phù hợp với y đức. Tác giả cũng nhấn mạnh tới gánh nặng kinh tế phải trả để kéo dài cuộc sống của những bệnh nhân đó.”[13]  Và quan điểm của Hoche và Binding đã có ảnh hưởng lớn trên tư tưởng Đức sau này và được Đức quốc xã áp dụng một cách triệt để.
          Tại Hà Lan sau nhiều trường hợp bị truy tố trước pháp luật, và dần dần đã tiến tới ủng hộ và sự cho phép an tử an tử/ trợ tử vào năm 1993, miễn truy tố pháp luật các thầy thuốc an tử/ trợ tử với điều kiện là hội đủ ba yếu tố sau[14]:
Thứ nhất sự yêu cầu an tử phải tới từ bệnh nhân, và được lặp lại nhiều lần, một cách có ý thức và tự do.
Thứ hai, bệnh nhân phải ở trong tình trạng vô cùng đau đớn, không có phương pháp nào làm thuyên giảm, ngoài cái chết.
Thứ ba người thầy thuốc phải tham khảo ý kiến một thầy thuốc khác, và người đó cũng phải xem an tử như là một giải pháp có thể chấp nhận được.”
Theo Bộ Y Tế Việt Nam tìm hiểu và cung cấp vào năm 2015[15]  đã có những quốc gia trên thế giới công nhận an tử/ trợ tử: Hà Lan (4/2002),  Bỉ (năm 2012), Luxembourg (2/2008), Canada (3/2015), Mỹ (5 bang gồm Washington, Oregon, Vermont, New Mexico và Montana), Pháp (2005) và Đức, Thụy sĩ.
          b) Hệ lụy về đạo đức và xã hội
          Việc chấp nhận an tử/ trợ sẽ dẫn tới nhiều hệ lụy nghiêm trọng khó lường trước về đạo đức và xã hội, ví dụ như:
Thứ nhất là ranh giới giữa an tử/ trở tự và hành vi giết người:
-         Con cái và người thân bệnh nhân sẽ thông đồng với bác sĩ để sửa bệnh án, hoặc cưỡng ép ông bà, cha mẹ bị bệnh ký vào giấy an tử nhằm thi hành “án tử” với ông bà, cha mẹ mình để trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc để tranh giành tài sản. Trong trường hợp này, luật an tử/ trợ tử lại là công cụ tiếp tay cho hành vi giết người có chủ đích hay không?
-         Một bác sĩ bất tài hay vì một sai lầm trong chuẩn đoán bệnh, với quyền trợ tử, có thể xóa hết dấu vết của sai lầm của chính bản thân.
-         Có những trường hợp bác sĩ chuẩn đoán sai tình trạng bệnh, nếu áp dụng an tử/ trợ tử thì cũng sẽ là vô tình giết người.
-         Một em bé sinh ra với dị tật. Cha mẹ hay bác sĩ có quyền “giúp” bé chết hay không ? Liệu có giết người không?
-         Liệu có bác sĩ thiếu y đức sẽ dùng an tử/ trợ tử để “loại bỏ” những bệnh nhân không có tiền chi trả viện phí hoặc những bệnh nhân từng có thù oán với họ.
-         Nhiều trường hợp người bệnh có thể hồi phục một cách kỳ diệu ngoài dự đoán của y học (ví dụ như đột ngột tỉnh dậy sau nhiều năm hôn mê) hoặc bệnh đó sẽ được tìm ra cách chữa trong tương lai gần, nếu áp dụng an tử/ trợ tử thì bệnh nhân không còn cơ hội chữa trị sau này, đó sẽ là vô tình giết hại một mạng người.
Thứ hai hệ lụy đến đạo đức và xã hội:
-         Một cha mẹ già khó chăm sóc bởi gia đình neo người. Với lý do là an tử/ trợ tử, con cái sẽ quyết định đó hay sao ?
-         Con cái và người thân bệnh nhân sẽ thông đồng với bác sĩ để sửa bệnh án, hoặc cưỡng ép ông bà, cha mẹ bị bệnh ký vào giấy an tử nhằm thi hành “án tử” với ông bà, cha mẹ mình để trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc để tranh giành tài sản. Trong trường hợp này, luật an tử/ trợ tử lại có cổ súy hành vi và tư tưởng bất hiếu trong xã hội.
-         Một số người bệnh sẽ tự chọn cái chết (dù bệnh có thể chữa khỏi) để trốn tránh những khoản nợ hoặc để gian lận điều gì đó.
-         Việc thi hành trợ tử sẽ dẫn tới nhiều bệnh nhân không còn tinh thần đấu tranh với bệnh tật, nhiều người sẽ chỉ muốn chết sau một vài nỗi đau đớn (dù cơ hội cứu chữa cho họ vẫn còn). Việc chữa trị do đó sẽ sụt giảm hiệu quả do tinh thần người bệnh bị buông xuôi.
-         Việc ký vào giấy an tử/ trợ tử đối với người bệnh sẽ để lại di chứng tâm lý (day dứt, hối hận) đối với những người thân còn sống. Nếu những người thân của họ bất đồng về việc an tử người bệnh (người đồng ý, người không đồng ý) sẽ rất dễ dẫn tới sự rạn nứt tình cảm gia đình, căm hận, thậm chí trả thù lẫn nhau sau này.
-         An tử/ trở tự liệu có hợp thức hoá giúp người tự tử có thể dẫn đến hoặc cổ súy việc gia tăng tỉ lệ tự tử. Ví dụ nhiều người dù không bị bệnh nan y nhưng chỉ cần cảm thấy bế tắc trong cuộc sống, tình cảm, không có nghị lực vươn lên ... đã vội đi tìm cách an tử/ trợ tử, khiến tỷ lệ tự tử trong xã hội tăng lên.
-         Cho phép an tử/ trợ tử đưa ra một tiêu chuẩn hai mặt về cách mà một xã hội đánh giá cuộc sống. Một mặt chúng ta xót xa đau khổ khi biết một người đã chấm dứt cuộc sống của họ qua việc an tử/ trợ tử hay tự tử. Thế nhưng mặc khác, chúng ta lại hợp thức hoá an tử/ trợ tử để chúng ta có thể giúp người khác chấm dứt mạng sống của họ qua cái gọi là an tử/ trợ tử hay giúp người tự tử. Như vậy thì đâu là sứ điệp và truyền thông mà chúng ta muốn nói với những người đang có ý định tự tử?
-         Người bác sĩ, thầy thuốc có làm cho bệnh nhân chết vì lòng thương xót, vì sự nài nỉ của đương sự, vì luật lệ đòi buộc ... thì hành động làm chết người khác liệu có gây một dấu vết nơi lương tâm người bác sĩ, thầy thuốc không? Nếu làm thế thì chức năng của người bác sĩ, thầy thuốc bị thay đổi, nghĩa là, người bác sĩ, thầy thuốc không chỉ là người cứu người, nhưng còn là người giết người; không chỉ nghiên cứu những cách cứu người hiệu quả nhất nhưng còn nghiên cứu những cách giết người nhanh chóng nhất, ít đau đớn nhất?
Đó mới chỉ là những câu hỏi trong muôn vàn trường hợp hệ lụy của an tử/ trợ tử đã gây ra khó lường và nghiệm trọng với ranh giới rất mỏng manh giữa đúng và sai từ luật pháp (hành vi giết người) đến đạo đức và xã hội.
III. Kinh Thánh Nói Gì Về An Tử- Trợ Tử
          Dưới lăng kính đạo đức học Cơ Đốc chúng ta có giải pháp cho vấn đề an tử - trợ tử theo niềm tin trong Kinh Thánh. Trước tiên chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Kinh Thánh nói gì về sự chết thân thể.
1. Kinh Thánh nói gì về sự chết thân thể
          Kinh Thánh trình bày sự chết là sự tách rời: sự chết thân thể là sự tách rời của linh hồn khỏi thể xác, và sự chết thuộc linh là sự tách rời của linh hồn khỏi Đức Chúa Trời. Trong bài viết này, tôi chỉ đề cập đến sự chết thân thể.
          Sự chết thân thể có thể định nghĩa là: Chết là từ giã cõi đời, là ngừng sống. Chết là chuyển từ giai đoạn sinh động sang giai đoạn hết sinh động. Chết là khi tim ngừng đập, hơi thở ngưng lại và khi thân thể trở nên một xác cứng đờ. Theo Kinh Thánh Truyền Đạo 12: 7[16]  thì sự chết là sự tách biệt của thân thể và hồn linh: Thân thể xuống mồ và tan ra thành cát bụi. Hồn linh đi đến một trong hai nơi: Hồn linh của người ác vào địa ngục và hồn linh của người công chính vào Ba-ra-đi (xem Lu-ca 16:19-31; 23:43).
a) Kinh Thánh mô tả sự chết
          Sự chết thuộc thể được Kinh Thánh mô tả là:
-  Ngủ. “La-xa-rơ, bạn ta, đang ngủ.” Giăng 11: 11;  I Tê-sa-lô-ni-ca 4: 14
- Linh hồn bị đòi lại. “Hỡi kẻ dại! Chính đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại; vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai?” Lu-ca 12: 30
- Tắt hơi. Công vụ các sứ đồ 5: 10, “Sa-phi-ra”, và trong Lu-ca 23: 46, nói về Chúa Cứu Thế.
- Nhà tạm đổ nát. “Nếu nhà tạm của chúng ta dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời.” II Cô-rinh-tô 5: 1
- Đi con đường không trở lại. “Vì ít số năm còn phải đến, rồi tôi sẽ đi con đường mà tôi chẳng hề trở lại.” Gióp 16: 22
- Xuống cõi nín lặng. “Kẻ chết hoặc kẻ xuống cõi nín lặng chẳng ngợi khen Đức Giê-hô-va.” Thi Thiên 115:17
b) Căn nguyên sự chết
          Khi đọc ngay những chương đầu tiên của sách Sáng thế ký trong Kinh Thánh thì chúng ta thấy được ngay rằng sự chết thuộc linh và sự chết thuộc thể cả hai đều xuất phát từ sự phản nghịch trong vườn Ê-đen. Kinh Thánh chép “... vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết.” Sáng thế ký 2: 17. Trong vườn Ê-đen, ông A-đam và bà Ê-va không chết ngay về phần xác khi họ ăn trái cấm. Họ chết trong phương diện thuộc linh (xem thêm Ê-phê-sô 2: 1). Ngay sang đến chương 4 thì người đầu tiên chịu chết là A-bên con của A-đam, bị anh là Ca-in giết: “Ca-in xông đến A-bên là em mình, và giết đi.” (4: 8b).
Sự chết thuộc linh gây nên do sự không vâng lời Đức Chúa Trời. “Lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết.” (Gia-cơ 1: 15) Cho thấy sự chết thuộc thể là hệ quả trực tiếp của tội lỗi. Trong trường hợp chết thuộc thể, bác sĩ có thể ghi ra một trong các nguyên nhân trong giấy khai tử, nhưng thật sự chỉ có một nguyên nhân sâu xa là tội lỗi. Tội lỗi là nguyên nhân căn bản và bệnh tật, sự chết thuộc thể là tác nhân bên ngoài mà Đức Chúa Trời dùng để thi hành bản án Ngài đã công bố trên nhân loại trong vườn Ê-đen. Kinh Thánh hẫu thuận:
“Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết.” Ê-xê-chi-ên 18: 20
Tiền công của tội lỗi là sự chết.” Rô-ma 6: 23
“Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét.” Hê-bơ-rơ 9: 27
Dù khoa y học hiện đại và các bác sĩ làm nhiều điều thì chỉ có thể để kéo dài cuộc sống. Đời người được dài ra, nhưng điều đó chỉ tạm đình hoãn lại sự chết mà thôi. Chúng ta đã bị “ấn định phải chết” (Hê-bơ-rơ 9: 27 xem thêm Công vụ các sứ đồ 17: 25 - 26). Chúng ta được sanh ra với một cuộc hẹn với cái chết. Chúng ta buộc phải giữ cuộc hẹn đó, không ai tránh khỏi, ai cũng phải chết.
2. Kinh Thánh Nói Gì Về An Tử- Trợ Tử
Dù muốn dù không, đến đây khi nói đến an tử/ trợ tử là nói đến khái niệm quyền được chết, tìm đến cái chết trước để được “chết êm ái”, “chết tốt đẹp”- một sự kết liễu trước hạn định.
Ý tôi nói đó là cái chết trước - một sự kết liễu trước hạn định. Cái chết hạn định là gì? “Hạn định” mà tôi muốn nói đến đó chính là sự quyết định thời điểm chết người đó của Đức Chúa Trời tức là con người không có quyền tự chọn cái chết. Bởi sự sống là Đức Chúa Trời ban cho nhân loại, và trong Ngài chúng ta được sống động và hiện hữu, Ngài cũng định trước thì giờ đời người nữa, Kinh Thánh chép: “Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài. Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở, … tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có(Công -vụ  các sứ -đồ 17: 25- 28). Như vậy, “tìm đến cái chết trước” đó là tự tử, tự sát  và tự tử , tự sát  thì Kinh Thánh cũng đã nên án trong bảng Mười Điều Răn rằng: “Ngươi chớ giết người.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20: 13, xem thêm I Giăng 3:15 “Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người; anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình.”). Đâu chỉ những thế thôi đâu, Kinh Thánh sách Truyền đạo 8: 8 tuyên bố rằng “Chẳng có ai cai trị được sanh khí để cầm sanh khí lại; lại chẳng ai có quyền về ngày chết”. Chẳng có ai cai trị được chẳng ai có quyền tự quyết về ngày chết của mình.  Như thế, an tử và trợ tử là nỗ lực của con người để chiếm đoạt lấy thẩm quyền tể trị tuyệt đối của Đức Chúa Trời trên sự sống và sự chết. Tóm lại, chúng ta đi đến một kết luận là chọn an tử và trợ tử đều sai.
          Quay trở lại về sự chết, thì tất nhiên rằng sự chết là một điều tự nhiên, ai cũng phải chết về thể xác một lần  (Hê-bơ-rơ 9:27)- đó là điều không tránh khỏi đối với con người. Nhưng nếu chúng ta hối thúc sự chết đến nhanh là không đúng.
          Thật vậy, quyền tự quyết có nghĩa nguyên gốc bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là autonomy: auto có nghĩa là tự mình hay chính mình và nomos  có nghĩa là cai trị hay điều hành, do đó autonomy (quyền tự quyết) có ý nghĩa liên quan đến ý nghĩa cai trị hay cai quản. Cụm từ “cai trị hay cai quản” được thấy ngay chương một (01) Sáng thế ký khi Đức Chúa Trời tạo dựng lên loài người và ban phước: “Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất.” (1: 28) Điều này cho thấy rằng quyền tự quyết đúng nghĩa theo Kinh Thánh thì không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà quyền này chỉ cho thấy con người có tự do cách đích thực khi theo đuổi và chọn theo những chân lý:
“Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn. Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết.” Sáng thế ký 2: 15- 16
Hai câu Kinh Thánh trên cho thấy sự tự do mà Chúa ban cho con người có kết quả, hữu ích, tốt đẹp và tuyệt vời khi chọn theo vâng lời Đức Chúa Trời- đó là chân lý phổ quát. Do đó, quyền tự quyết chỉ thực sự khi được gắn liền với những chân lý phổ quát của Đức Chúa Trời. Như đã trình bày, một trong những chân lý phổ quát của Chúa đó là không được giết người (Xuất Ê-díp-tô Ký 20: 13, I Giăng 3:15) và cẩn thận đề phòng để bảo vệ sự sống của mình và người khác (Phục truyền luật lệ 22:8) - Điều này, Đức Chúa Trời muốn chúng ta quý trọng món quà sự sống- đây cũng là lẽ thường phổ quát đối với lý trí luân lý tự nhiên của con người: không được giết người và làm tổn hại đến mạng sống người khác. Như vậy, quyền tự quyết tự nó không thể làm nền tảng cho cái được gọi là “quyền được chết” vì như thế là mâu thuẫn, là đi ngược lại chân lý phổ quát của Kinh Thánh. Cũng vậy, không thể dựa vào quyền tự quyết của mình mà đòi người khác trợ giúp mình tự tử, vì như thế là áp đặt nghĩa vụ lên người khác, làm hạn chế quyền tự quyết của họ.[17]
Thứ hai là lòng thương xót. Chắc chắn không ai muốn thấy chính mình hay người thân của mình bị dằn vặt trong những đau khổ thể xác lẫn tinh thần. Dù cho ý đó tốt lành đến mấy đi nữa, là thể hiện lòng thương xót đối với người bệnh, không muốn họ phải đau khổ hay trở nên gánh nặng cho gia đình và xã hội đi nữa, thì cũng không thể biện minh cho hành vi kết thúc mạng sống của người khác. Lòng thương xót trong hoàn cảnh ấy là giả tạo. Bởi lẽ, lòng thương xót chân thật khiến ta chia sẻ nỗi đau của người khác, chứ không giết chết người đang chịu sự đau khổ mà chính chúng ta không mang được nỗi đau ấy. Chúng ta hãy nhìn vào Kinh Thánh, trong ví dụ người Sa-ma-ri nhân lành (Lu-ca 10: 1- 42), rõ ràng là lòng thương xót phải được chứng tỏ đối với bất cứ ai cần được sự trợ giúp của mình. Như Chúa Giê-xu, lòng thương xót luôn luôn tôn trọng mọi người, mà còn phải chứng tỏ điều đó bằng một việc của Ngài chẳng những phải làm nữa (I Giăng 3: 17) cho dù có phải hy sinh bản thân.[18]  Thế nên an tử/ trợ tử không phải là thương xót. Và đây cũng không phải là cách giải quyết đối với sự đau đớn. Các bệnh nhân vô phương cứu chữa có thể được giảm đau rất nhiều vào những cách thức điều trị hiện nay. An tử/ trợ tử phải được gọi là một sự thương xót sai lầm, và thực sự đó là một sự xuyên tạc về lòng thương xót. Lòng thương xót đích thực dẫn đến việc chia sẻ sự đau đớn của người khác chứ không phải giết người đang đau đớn vì chúng ta không thể chịu đựng được. Thêm vào đó, hành động an tử/ trợ tử sẽ trở nên nguy hại hơn nếu nó được thực hiện bởi người thân, những người đáng ra phải đối xử với thành viên gia đình với sự kiên nhẫn và yêu thương, hoặc bởi những người, như các bác sĩ, là những người mà theo đạo đức nghề nghiệp phải chăm sóc bệnh nhân ngay cả đang trong những giai đoạn đau đớn cuối cùng.[19]
3. Giải pháp
          Kinh Thánh không nói cụ thể về việc an tử/ trợ tử. Nhưng qua phần nhận định của tôi như trên, cho thấy rằng tình huống đối với bệnh vô phương cứu chữa hay sống đời sống thực vật mà tìm đến an tử/ trợ tử là một giải pháp thì đây là điều không khôn ngoan chút nào, là điều sai trong đạo đức Cơ Đốc. Vì sao là sai thì tôi đã giải thích ở trên. Vì sao là không khôn ngoan? Vì:
Thứ nhất, các phương pháp y học chỉ đưa ra những gì mà họ nhìn thấy, nhưng Đức Chúa Trời mới là Đấng Sáng Tạo, Đấng Thiết Kế con người đó. Do vậy Đức Chúa Trời luôn có những chủ đích của Ngài trong mọi sự, trong mọi hoạn nạn, đau khổ kể cả cho đến giây phút cuối cùng của một đời người (Rô-ma 9: 28 chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định..”)  Đôi khi Chúa cho phép một người đau khổ trong một thời gian dài trước khi cái chết diễn ra; những lần khác, sự đau khổ được thu ngắn lại. Không ai tận hưởng sự đau khổ, nhưng điều đó không làm cho việc một người tìm an tử/ trợ tử là đúng. Thông thường, mục đích của Chúa được biết rõ trong sự đau khổ: Rô-ma 5:3 dạy rằng “hoạn nạn sanh sự nhịn nhục.” Trong cõi đời đời, và cái nhìn toàn cảnh của Đức Chúa Trời thì Ngài mới biết được điều gì là tốt nhất, và trong thời điểm của Ngài, kể cả về thời điểm chết đi của một người, cũng là hoàn hảo. Ngài là Đấng Vô Hạn! Con người là hữu hạn! Loài người cho điều đó là tốt nhưng đối với Chúa thì chưa chắc đã là tốt nhất.
Điều thứ hai, phương pháp y học ngày nay chuẩn đoán không thể chính xác 100 %.  Về điều này Bác sĩ Huỳnh Văn Bình, chuyên ngành ung bướu Việt Nam, chia sẻ: “Y khoa là một ngành khoa học không chính xác tuyệt đối. Chuẩn đoán thì không thể chính xác 100%, luôn có một tỉ lệ sai sót không mong muốn, tỉ lệ này cao hay thấp phù thuộc vào trình độ chuyên môn của từng bác sĩ, trang bị kỹ thuật của từng bệnh viện. Thế nên làm sao chúng ta có thể đoán chắc là bệnh nhân này đã hết cách cứu chữa. Và nếu thực hiện “quyền được chết” thì ta sẽ giết lầm một nhân mạng, mà nếu điều đó xảy ra thì thật khủng khiếp.”[20]
Điều thứ ba, phương pháp y học hiện tại chưa phải là đã đủ là tất cả bởi vì nó đang phát triển. Có thể nói nôm na dễ hiểu là với tiến bộ của khoa học, bệnh mà y khoa hôm nay không cứu chữa được có thể có hy vọng cứu chữa được trong tương lai ngày mai. Thí dụ kinh điển: “Trong những năm 1940, một bác sĩ giúp con mình, bị bệnh uốn ván, chết một cách nhẹ nhàng. Như khi chôn con xong, ông ấy nghe đài báo là một serum trị bệnh uốn ván mới vừa được phát minh.” Y khoa lại không phải là môn toán hay vật lý. Y khoa chỉ là những nghệ thuật và phương thức chữa trị và nhiều khi kết quả thật bất ngờ, người bệnh có thể hồi phục một cách kì diệu ngoài dự đoán của y học ví dụ như đột ngột tỉnh lại sau nhiều năm hôn mê. [21]
          Như thế đó, trong hoàn cảnh này chúng ta hãy nhờ cậy Chúa, cầu xin Chúa thêm sức cho chúng ta, ban cho chúng ta sự khôn ngoan để đối mặt với nan đề này. Tin cậy nơi Chúa vì biết rằng Ngài có mục đích thời điểm tốt nhất cho bệnh nhân. Đây là hy vọng của chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng cái chết trong đức tin nơi Đức Chúa Giê-xu Phục Sinh, Đấng là Chủ Tể của mọi sự, của sự sống cũng như sự chết. Và chúng ta hãy có tấm lòng yêu thương chăm sóc đối với bệnh nhân đó. Không được có ý tưởng hối thúc sự chết đến nhanh chóng cũng như từ chối mọi cách phương pháp chữa trị vì đó là sai lầm, nhưng hãy để sự chết diễn ra một cách tự nhiên với người mang bệnh nan y không hẳn là sai.
Phản Tỉnh và Kết Luận
Theo quan điểm cá nhân, tôi nhận thấy rằng sự sống luôn là mục tiêu của con người, chứ không phải cái chết. Nếu mục tiêu là cái chết thì thà rằng con người chúng ta đừng sinh ra thì hơn. Do đó, dù sử dụng cách thế nào đi chăng nữa, ngày nay người ta vẫn hiểu an tử/ trợ tử là hành động làm chấm dứt mạng sống của bệnh nhân, theo tôi, đó là xúc phạm đến nhân phẩm con người bởi vì sự sống là tài sản quý giá nhất, là chính con người. Hơn nữa, sự sống là quà tặng của Đức Chúa Trời- Đấng Tạo Hóa: không ai sở hữu sự sống, nên không có quyền quyết định trên sự sống sự chết, kể các người ngoài cuộc (bác sĩ, nhân thân) lẫn người trong cuộc là bệnh nhân. Và theo như những gì đã trình bày, tôi thấy rằng bệnh nhân cũng không có quyền trên sự chết của mình hay chọn cái chết cho mình. Vì thế, tôi chống lại vấn đề an tử/ trợ tử, không chỉ theo lập trường ở trên mà còn vì lương tâm và đức tin trong Kinh Thánh. Trong cuộc sống, không một giá trị nào mà không có trả giá, ai quý trọng sự sống, tôn kính Đức Chúa Trời thì phải chấp nhận trả giá. Là người có đức tin nơi Chúa Giê-xu và Kinh Thánh, tôi nghĩ chúng ta cần phải có trách nhiệm là làm sao dung hòa được giữa tình yêu thương với bệnh nhân và tôn trọng đạo đức Cơ Đốc. Để được như thế tôi xin đưa ra một vài đề nghị như sau:
- Thứ nhất, trong đức ái, cần phải tôn trọng và nâng đỡ những người già cả, người bệnh tật thậm chí cả người khuyết tật cách đặc biệt.
- Thứ hai, không thể chấp nhận dù với bất cứ lý do nào, phương tiện nào đẫn đến việc “chết một cách êm dịu” đối với những người nói trên.
- Thứ ba, bệnh nhân và người thân (hay người giám hộ hợp pháp) có quyền được chấp nhận ngưng những cách chữa trị quá tốn kém, hoặc việc bám riết điều trị mà không nắm chắc kết quả.
- Thứ tư, không được ngưng những biện pháp chăm sóc thông thường, sự điều trị thông thường dù bệnh nhân sắp chết; nhưng được dùng thuốc làm giảm đau (như morphine, hoặc thuốc giảm đau tương tự chẳng hạn), ngay cả khi vì dùng thuốc đó bệnh nhân có thể chết sớm hơn.
Dù sao, vấn đề an tử và trợ tử vẫn còn tiếp tục gây tranh cãi vì câu trả lời tùy thuộc vào nhân sinh quan (triết học, nhân học) và vào lương tâm (đạo đức học, tôn giáo) của mỗi người. Thế nhưng, nếu quyết định trợ giúp an tử/ trợ tử hoàn toàn vì lý do thực dụng (có lợi ngay trước mắt) thì là xúc phạm đến giá trị sự sống, đến nhân phẩm của bệnh nhân. Vì thế, một lần nữa tôi khẳng định quan điểm của cá nhân tôi là không nên sử dụng an tử/ trợ tử, ngay cả khi người bệnh yêu cầu, và nếu được thì nên áp dụng biện pháp dung hòa như đã nói trên. Nguyện xin Chúa ban phước cho bạn!

THƯ MỤC
Baruch A. Brody, Suicide and Euthanasia: Historical and Contemporary Themes, Philosophy and Medicine 35.

R. G. Frey và Sissela Bok, Euthanasia and Physician-Assisted Suicide: For and Against. United Kingdom: CambridgeUniversity Press, 1998.

Kevin O'Rourke, Value Conflicts Raised by Physician-Assisted Suicide, LinacreQuarterly, 1990.

Richard J. Devine, Good Care, Painful Choice.  New Jersey: Paulist Press, 1966.

Nguyễn Ngọc Lan, Trợ Tử- Cái nhìn đúng đắn, từ trang web:

Kinh Thánh nói gì về An tử/ Trợ tử, từ trang web:

Lm Phero Trần Mạnh Hùng, An tử và trợ tử dưới nhãn quan thần học luân lý, NXB Tôn Giáo, 2004.

Jeff McMahan, The Ethics of killing, Oxford University press, 2002.

Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Lời thề Hippocrates – Lời thề Y đức của các tân Bác Sĩ Sài Gòn xưa, từ trang web: https://dansaigon.com/2018/11/25/loi-the-hippocrates-loi-the-y-duc-cua-cac-tan-bac-si-sai-gon-xua/
Leon Kass, Ts. Y khoa,  Should Euthanasia or Physician-Assisted Suicide Be Legal?, từ trang web:

Andrew Goddard, A Pocket Guide to Ethical Issues, Lion Hudson, 2006.

Tự điển Thánh Kinh- Lòng Thương Xót, Vietbible 3.0.

Lm FX Nguyễn Văn Tuyết, Tại Sao Không Nên Hợp Pháp Hoá Trợ Tử, từ trang web: http://vietcatholicsydney.net/vietcatho/newsdetail/Hoi-Dap-21/Tai-Sao-Khong-Nen-Hop-Phap-Hoa-Tro-Tu-(Euthanasia)456/

Tú Anh, Nhiều quốc gia trên thế giới công nhận “quyền được chết”, từ trang web: https://dantri.com.vn/suc-khoe/nhieu-quoc-gia-tren-the-gioi-cong-nhan-quyen-duoc-chet-1430436532.htm

Quyền được chết tạo áp lực khủng khiếp cho y, bác sĩ - Tuổi Trẻ Online”. Web: Tuổi Trẻ Online.

“Quyền được chết - an tử và trợ tử”.  Web: Dân Trí.





[1] Baruch A. Brody, Suicide and Euthanasia: Historical and Contemporary Themes, Philosophy and Medicine 35, trang 9.
[2] R. G. Frey và Sissela Bok, Euthanasia and Physician-Assisted Suicide: For and Against. (United Kingdom: CambridgeUniversity Press, 1998), trang 110- 111.
[3] Kevin O'Rourke, "Value Conflicts Raised by Physician-Assisted Suicide." LinacreQuarterly 57 (1990): trang 39-40.
[4] Richard J. Devine, Good Care, Painful Choice. (New Jersey: Paulist Press, 1966), trang 198.

[5] Nguyễn Ngọc Lan, Trợ Tử- Cái nhìn đúng đắn, từ trang web: http://hockiquandoi.vn/goc-nhin-da-chieu-tro-tu-chi-ung-ho-khi-co-cai-nhin-dung-dan/, đăng ngày 18/10/2015, truy cập ngày 15/3/2019.
[6] Bác sĩ Jack Kevorkian bị truy tố vì trợ giúp một bệnh nhân vô phương cứu chữa kết liễu mạng sống. Trước khi bị kết án tù vào năm 1999 vì tội giết người, ông tuyên bố đã thực hiện việc này cho 130 người. Vụ Kevorkian gây chấn động và đến nay việc làm của ông vẫn còn được công luận bàn tán, mổ xẻ.
[7] Kinh Thánh nói gì về An tử/ Trợ tử, từ trang web: https://www.gotquestions.org/Viet/an-tu-tro-tu-lam-chet-khong-dau-don.html. Không có tác giả, không ghi ngày đăng. Truy cập ngày 15/3/2019.
[8] Lm Phero Trần Mạnh Hùng, An tử và trợ tử dưới nhãn quan thần học luân lý, NXB Tôn Giáo, 2004, trang 80.
[9] Jeff McMahan, The Ethics of killing, Oxford University press, 2002, trang 460- 470.
[10] Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Lời thề Hippocrates – Lời thề Y đức của các tân Bác Sĩ Sài Gòn xưa, từ trang web https://dansaigon.com/2018/11/25/loi-the-hippocrates-loi-the-y-duc-cua-cac-tan-bac-si-sai-gon-xua/, không ghi rõ ngày đăng. Truy cập ngày 15/3/2019.
[11] Leon Kass, Ts. Y khoa,  Should Euthanasia or Physician-Assisted Suicide Be Legal?, từ trang web https://euthanasia.procon.org/view.source.php?sourceID=000929, đăng ngày 1/6/2009. Truy cập ngày 16/3/2019.
[12] Jeff McMahan, The Ethics of killing, Oxford University press, 2002,  trang 455- 460.
[13] Andrew Goddard, A Pocket Guide to Ethical Issues, Lion Hudson, 2006,  trang 207- 212.
[14] Jeff McMahan, The Ethics of killing, Oxford University press, 2002,  trang 460- 496.
[15] Tú Anh, Nhiều quốc gia trên thế giới công nhận “quyền được chết”, từ trang web https://dantri.com.vn/suc-khoe/nhieu-quoc-gia-tren-the-gioi-cong-nhan-quyen-duoc-chet-1430436532.htm , đăng ngày 23/4/2014. Truy cập 16/3/2019.
[16] “Bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó.” Truyền Đạo 12: 7
[17] Lm Phero Trần Mạnh Hùng, An tử và trợ tử dưới nhãn quan thần học luân lý, nxb Tôn Giáo, 2004, trang 168.
[18] Tự điển Thánh Kinh- Lòng Thương Xót, Vietbible 3.0.
[19] Lm FX Nguyễn Văn Tuyết, Tại Sao Không Nên Hợp Pháp Hoá Trợ Tử, từ trang web http://vietcatholicsydney.net/vietcatho/newsdetail/Hoi-Dap-21/Tai-Sao-Khong-Nen-Hop-Phap-Hoa-Tro-Tu-(Euthanasia)456/ , không rõ ngày đăng. Ngày truy cập 16/3/2019.
[20] Quyền được chết tạo áp lực khủng khiếp cho y, bác sĩ - Tuổi Trẻ Online”. Web: Tuổi Trẻ Online. Đăng ngày 27 tháng 4 năm 2015. Truy cập 16 tháng  3 năm 2019.
[21] “Quyền được chết - an tử và trợ tử”.  Web: Dân Trí. Đăng ngày 29 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.







Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


Luật Đạo Đức Của Môi- se Và Luật Đạo Đức Tân Ước







 BÀI VIẾT NGẮN

“Luật đạo đức của Môi-se và Luật đạo đức Tân Ước giống và khác nhau thế nào?” 

Tiến sĩ/ Thạc sĩ/ Mục sư Bùi Qúy Đôn


Dẫn Nhập
          Luật pháp về nghĩa căn bản đó là những giáo huấn, dạy dỗ chỉ ra giới hạn nhằm thực hiện. Luật pháp là áp dụng giao ước vào đời sống. Ban bố luật pháp cũng là phần sự ban cho của Đức Chúa Trời về chính mình Ngài cho dân Ngài trong giao ước và bày tỏ cùng mục đích yêu thương trong giao ước (Xuất Ê-díp-tô 19: 5- 6). Như vậy đó, luật pháp tỏ bày cho dân Ngài thấy cách thức ăn ở làm sao để tương xứng với địa vị thuộc về Đức Chúa Trời và tình yêu Chúa dành cho họ - Đó chính là đạo đức. Vậy luật đạo đức của Môi-se và luật pháp đạo đức Tân ước giống và khác nhau như thế nào thì qua bài viết ngắn này, tôi mô tả bức tranh về điểm giống và khác nhau đó.

Luật Đạo Đức Của Môi-se
          Đạo đức là khoa học về hành vi.[1]   Đạo đức dạy chúng ta phải ăn ở, ứng xử như thế nào. Trong Cựu ước, đạo đức của Môi-se bắt nguồn từ lịch sử từ gia đình Áp-ra-ham đến Giô-sép rồi đến thời gian họ từng làm nô lệ tại Ê-díp-tô và đã được Đức Chúa Trời dùng quyền năng giải cứu. Vì thế dân Y-sơ-ra-ên đã vâng lời Chúa vì hai lý do chính:  Thứ nhất Chúa là Đức Chúa Trời quyền năng, làm những việc vĩ đại thứ hai Đức Chúa Trời đã làm những việc vĩ đại quyền năng cho họ. Chính bởi điều này sự bước đi ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời là thành ngữ thông dụng chỉ về nếp sống đạo đức của dân sự Ngài đối với Ngài. Nó bắt nguồn từ giao ước chủ động của chính Ngài đối với dân Ngài, đó là do ân sủng của Ngài chớ không phải vì hành động tốt lành của dân Ngài:
Vì ngươi là một dân thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; Ngài đã chọn ngươi trong muôn dân trên mặt đất, đặng làm một dân thuộc riêng về Ngài. Đức Giê-hô-va tríu mến và chọn lấy các ngươi, chẳng phải vì các ngươi đông hơn mọi dân khác đâu; thật số các ngươi là ít hơn những dân khác. Nhưng ấy vì Đức Giê-hô-va thương yêu các ngươi, và giữ lời thề mà Ngài đã lập cùng tổ phụ các ngươi, nên Đức Giê-hô-va nhờ tay mạnh rút các ngươi ra, chuộc khỏi nhà nô lệ, và cứu khỏi tay Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô. (Phục truyền luật lệ ký 7: 6- 8)
         
          Không chỉ như vậy, đạo đức của Môi-se cũng là một mối liên hệ cá nhân giữa con người với Chúa (ví dụ trong Xuất Ê-díp-tô ký 20: 1- 11) và giữa con người với nhau (ví dụ trong Xuất Ê-dip-tô ký 20: 12- 17) và tình yêu thương làm nền tảng (ví dụ Xuất Ê-díp-tô 20: 5). Dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Ngài vì tình yêu, chứ không phải vì sợ hãi hình phạt. Họ phải vâng lời Ngài đó là nếp sống chứng tỏ họ là dân của Ngài:
Vậy nên, phải nhận biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, ấy là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước và nhân từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài; và Ngài báo ứng nhãn tiền cho những kẻ ghét Ngài, mà hủy diệt chúng nó đi. Ngài không trì hoãn cùng kẻ nào ghét Ngài đâu, sẽ báo ứng nhãn tiền cho kẻ đó. Vậy, khá cẩn thận làm theo những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà ta truyền cho ngươi ngày nay. (Phục truyền luật lệ ký 7: 9- 11)

Trong nếp sống dân Y-sơ-ra-ên, họ vâng lời Đức Chúa Trời bởi tình yêu, và cũng bởi tình yêu dân Ngài cũng sống đời sống phân cách xứng đáng là dân của Ngài: “Hãy nên thánh, vì Ta là Thánh” (Lê-vi-kí 20: 26; 19: 2; 11: 44- 45). Đây là một đời sống dọn mình, phân rẽ mà Đức Chúa Trời đòi hỏi dân Y-sơ-ra-ên cần sống. Được Đức Chúa Trời lựa chọn, biệt riêng, trở nên dân của Ngài, là một nước thầy tế lễ[2]  thì phải có đời sống nên thánh cho Chúa. Bởi sự đòi hỏi áp dụng này, một số vấn đề đạo đức của Môi-se được đưa ra những lời giáo huấn, lời dạy dỗ cụ thể dần dần để dân sự Ngài vâng theo như không được cưới gả dân ngoại, về thực hành tôn giáo, các nghi lễ, các việc tỏ lòng thương xót đối với nô lệ, người nghèo khó, dân ngoại, … thậm chí có cả trong kinh doanh, việc làm. Mặc dù khi chúng ta đọc luật pháp của Môi-se thấy như có phần nghiêm nhặt, nhưng lại chứa đựng đầy sự khoan dung, cởi mở và đầy tình yêu thương. Đây chính là cái nôi hướng tới mà đạo đức Tân ước bày tỏ.

Luật Đạo Đức Tân Ước
          Cựu ước là tiền thân của Tân ước, mà chúng ta vừa tìm hiểu về đạo đức của Môi-se, liệu đạo đức Tân ước có khác hay không?
          Bắt đầu Tân ước là các sách Phúc âm, bày tỏ vì tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với toàn nhân loại nên Ngài đã chủ động ban Chúa Giê-xu cho nhân loại, hầu cho ai tin Con ấy đều nhận được sự sống đời đời (Giăng 3: 16). Qua Chúa Giê-xu, một giao ước mới được thiết lập. Đó là ân sủng của Ngài dành cho tất cả nhân loại. Trong giao ước mới này, không còn phân biệt dân Y-sơ-ra-ên hay dân ngoại nữa mà tất cả được thành một dân, trở thành nước thầy tế lễ cho Ngài:
 “Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài;  anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót. (I Phi-e-rơ 2: 9-10)
Bởi tình yêu đó, Cơ Đốc nhân sẵn sàng vui lòng vâng giữ lời Ngài: “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta.” (Giăng 14: 15, 21).  Và cũng bởi tình yêu đó, trong Đức Chúa Giê-xu, Ngài đòi hỏi chúng ta cũng phải có đời sống nên thánh mà chính sứ đồ Phi-e-rơ đã trích dẫn trong Lê-vi-kí 20: 26; 19: 2; 11: 44- 45 để viết trong thư gởi cho các tín hữu là: “như Đấng gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở mình, bởi có chép rằng: Hãy nên thánh, vì ta là thánh.” (I Phi-e-rơ 1: 15- 16)

So Sánh
Như vậy, so sánh giữa luật đạo đức Môi-se và luật đạo đức Tân ước về nguyên tắc nội tại thì không có gì thay đổi (vẫn y nguyên) mặc dù điều bên ngoài đúng là đã thay đổi. Mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời với dân Ngài, và mối liên hệ giữa con người với con người thì cũng không thay đổi. Nếu có sự khác biệt thì đó là sự khác biệt do áp dụng theo phong tục, tập quán của lãnh thổ, đất nước mà thôi.  Chứ giá trị đạo đức của nguyên tắc trong hai luật đạo đức này đề cập đến là những điều bất biến, và những mối liên hệ không hề thay đổi. Đây chính là tính vĩnh hằng của Lời Ngài: “Mọi xác thịt ví như cỏ, Mọi sự vinh hiển của nó ví như hoa cỏ.Cỏ khô, hoa rụng, Nhưng lời Chúa còn lại đời đời.” (I Phi-e-rơ 1: 24- 25).
Ví Dụ Về Vấn Đề Nô Lệ:
+ Cựu Ước:
Nô lệ tồn tại. Mặc dù rất nhiều trong thế giới cổ xưa chế độ này vừa lan tràn rộng rãi vừa hết sức tàn ác. Người nô lệ chẳng được quyền lời nào cả và bị đối xử gần như thú vật. Nhưng luật đạo đức của Môi- se, đảm bảo cho nô lệ một số quyền lợi, cả đến việc nghỉ ngơi và tham dự lễ lạc nữa. Ví dụ như chỉ phục dịch chủ sáu (06) năm, rồi được tự do với một ít tiền (Xuất 12: 2; Phục 15: 13). Và người làm chủ nô được dạy dỗ giáo huấn là nhớ rằng nô lệ cũng là những con người cần được đối xử trân trọng – phải luôn nhớ rằng chính họ đã từng bị bắt làm nô lệ tại Ê-díp-tô mà Đức Chúa Trời đã dùng quyền năng mà giải cứu họ ra khỏi (Phục 15: 15). Còn đối với người nữ nô lệ thì phải được bảo vệ đặc biệt (Xuất 21: 9-11; Phục 21: 10- 14). Qua cách cử xử tốt lành như vậy mà chủ nô đáng phải làm trong luật đạo đức của Môi-se thì ông Greene nhận định rằng: “Cách giải quyết vấn đề nô lệ của luật pháp Cựu ước là một cách thức vừa giảm thiếu sự áp bức vừa nuôi dưỡng tư tưởng hướng tới việc hủy bỏ nó” (Trong Kaiser 1972, 227. Vietbible 2.0 sách Thần Học Cựu ước).
+ Tân Ước:
Khi đọc trong các sách Phúc Âm, chúng ta thấy rằng mười hai vị (12) môn đồ của Chúa Giê-xu không có một ai thuộc hệ thống chế độ nô lệ, chẳng có ai là nô lệ, cũng chẳng có ai là chủ nô. Nhưng trong bài giảng dạy của Chúa Giê-xu thì Ngài nhấn mạnh mối liên hệ giữa các môn đệ với Ngài tương tự như mối liên hệ giữa các tôi tớ với chủ họ: “Môn đồ không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ” (Ma-thi-ơ 10: 24 xem thêm Giăng 13: 16). Và ngay chính Chúa Giê-xu cũng tự nhận vai trò sứ mạng là một tôi tớ: “Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mác 10: 45). Và trong câu chuyện Chúa Giê-xu rửa chân cho các môn đồ Giăng 13: 4- 17, Chúa Giê-xu đã nêu gương khích lệ cho các môn đồ nên phục vụ lẫn nhau.
Rồi đến khi Hội Thánh được thành lập, tại nhiều nơi trong Hội Thánh được thiết lập trên cơ sở là anh em của nhau là “người nhà”[3]  bao gồm có cả chủ nô lẫn tôi tớ: “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một” (Ga-la-ti 3: 28 xem thêm I Cô-rinh-tô 7: 22). Và sứ đồ Phao-lô thì cũng không lên án, chống đối lại chế độ nô lệ nhưng ông nói rằng nếu có cơ hội thuận tiện để tự do thì hãy cố gắng  (I Cô-rinh-tô 7: 21). Và cũng chính ông lại đưa ra lời dạy dỗ nữa là người nô lệ phải đặt mục tiêu làm đẹp lòng Đức Chúa Trời qua cung cách phục vụ của họ:
 “Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy run sợ, lấy lòng thật thà mà vâng phục kẻ làm chủ mình theo phần xác, như vâng phục Đấng Christ,  không phải vâng phục trước mặt người mà thôi, như các ngươi kiếm cách làm đẹp lòng người ta, nhưng phải như tôi tớ của Đấng Christ, lấy lòng tốt làm theo ý muốn Đức Chúa Trời.  Hãy đem lòng yêu mến hầu việc chủ, cũng như hầu việc Chúa, chẳng phải như hầu việc người ta, vì biết rằng bất luận tôi mọi hay tự chủ, mỗi người đều sẽ nhận lãnh của Chúa tùy việc lành mình đã làm. Hỡi anh em là người làm chủ, hãy đối đãi kẻ tôi tớ mình đồng một thể ấy, đừng có ngăm dọa chúng nó, vì biết rằng mình với chúng nó đều có một chủ chung ở trên trời, và trước mặt Ngài chẳng có sự tây vị ai hết.”  (Ê-phê-sô 6: 5- 9)
Mối dây liên hệ do tình huynh đệ anh chị em trong Chúa với chủ nô là tín hữu phải  là một lý do thêm vào để phục vụ cho thật tốt hơn. Mặc khác, tình cảm trên hết của người làm chủ cũng phải là tình huynh đệ anh chị em (xem Phi-lê-mô 16) và chắc chắn cũng phải đối xử với các nô lệ của mình bằng thái độ lòng yêu mến, công bằng (Ê-phê-sô 6: 9) và tuyệt đối công bằng -“Hỡi người làm chủ, hãy lấy điều công bình chánh trực đãi tôi tớ mình, vì biết rằng anh em cũng có một Chủ mình ở trên trời.” (Cô-lô-se 4: 1).
Như thế, rõ ràng rằng tình huynh đệ của các con cái Đức Chúa Trời nổi bật hơn hẳn tinh thần nô lệ, chủ nô. Vì tất cả mọi thành viên trong gia đình Ngài thảy đều được giải phóng khỏi các xiềng xích. Mối phân biệt giai cấp đó không thể tác động hay ảnh hưởng đến mối quan hệ huynh đệ trong Chúa nữa. Nơi nào có mối quan hệ huynh đệ trong Đấng Christ nơi đó không còn chế độ nô lệ. Điều này đã bày tỏ được rõ ý nhận định mà ông Greene đã nói ở trên: “… nuôi dưỡng tư tưởng hướng tới việc hủy bỏ nó”.

Kết Luận         

          Vậy, luật đạo đức của Môi- se và luật đạo đức Tân ước về nguyên tắc nội tại thì vẫn y nguyên, bởi là đều đến từ Chúa, là Lời của Chúa. Nếu có khác biệt thì chỉ là cách áp dụng vào hoàn cảnh phong tục, tập quán, đất nước khác nhau mà thôi ví dụ như thời dân Y-sơ-ra-ên Cựu ước và Tân ước, vvv…. Mặc dù luật đạo đức của Môi-se có tỉ mỉ, nhân văn ra sao thì bởi xác thịt chúng ta không thể làm nổi:“Vì điều chi luật pháp không làm nổi, tại xác thịt làm cho luật pháp ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì cớ tội lỗi sai chính Con mình lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi chúng ta, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt” (Rô-ma 8: 3). Tạ ơn Chúa, trong Đấng Christ chúng ta được dạn dĩ bước đi trong đạo đức Cơ Đốc. 



[1] Tài liệu tham khảo sách Đạo Đức Học, trang 1.
[2] Xuất Ê-díp-tô 19: 6
[3] I Phi-e-rơ 2: 9


Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


SỨC KHỎE- ÐỜI SỐNG

Xem tất cả Sức khoẻ đời sống »

SẮC ÐẸP

Xem tất cả Sắc đẹp »

GIA CHÁNH

Xem tất cả Gia chánh »

MẸ & BÉ

Xem tất cả Mẹ và bé »