Dan 16:1 có nói chuyện Cô-rê - thuộc dòng Lê-vi, không phải là thầy tế lễ - đã cầm đầu một nhóm người chống đối Môi-se vì ông cho rằng mọi người đều có thể làm thầy tế lễ. Gia đình ông, cùng gia đình Đô-than, A-bi-ram bị Chúa phạt bằng cách cho đất nuốt. Các người theo họ thì bị lửa thiêu hủy. Dầu vậy, Chúa vẫn tỏ lòng nhân từ, đã không giết các con của Cô-rê. Nhờ chứng kiến việc nầy, con cháu ông trở nên tin kính Chúa thêm, vì thế, về sau dòng dõi Cô-rê có những người tài giỏi như tiên tri Sa-mu-ên, con cháu Cô-rê đã viết 11 đoạn Thi Thiên, trong đời vua Đa-vít, họ canh cửa đền tạm và làm nhạc công.
Biến cố tại núi Si-na-i trong đồng vắng cho chúng ta thấy rằng từ A-rôn cho đến hết thảy người Lê-vi cũng đều có tội thờ bò vàng như các chi phái khác, nhưng khi Môi-se kêu gọi: “Ai thuộc về Đức Giê-hô-va, hảy đến cùng ta!” thì người Lê-vi biết lỗi và phục tùng mạng lệnh của Chúa (Xu 32:25-29).
Biến cố thứ hai tại Si-tim, khi dân Y-sơ-ra-ên nghe lời dụ dỗ thông dâm cùng con gái Mô-áp và thờ lạy các thần của họ, thì Phi-nê-a, cháu A-rôn, đã đứng ra làm nguôi cơn giận của Đức Chúa Trời và được Chúa phán: “Ta ưng cho người sự giao ước bình yên ta; ấy về phần người và dòng dõi người sẽ là sự giao ước về một chức tế lễ đời đời, bởi vì người có lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời mình, và có chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên.” (Dan 25:12-13).
Vậy chúng ta thấy dù tội lỗi nhưng biết ăn năn và trở lại cùng Chúa, vẫn được Chúa tha thứ và dùng trong chương trình của Ngài. Ở đây chúng ta cũng học được quyền năng lạ lùng của Đức Chúa Trời, Ngài có thể đổi sự rủa sả ra thành phước hạnh mà vẫn giữ được đúng lời tiên tri của Gia-cốp là dân Lê-vi sẽ phải ở tản lạc trong anh em mình.
Chuyện nầy cũng dạy chúng ta rằng Si-mê-ôn và Lê-vi, cùng có tội như nhau, cùng chịu một lời rủa sả như nhau, nhưng chi phái Si-mê-ôn không ăn năn tội và không trở lại cùng Chúa nên bị tản lạc, cuối cùng bị mất luôn cả tông tích; trong khi chi phái Lê-vi vì trở lại cùng Chúa nên được chức tế lễ đời đời. Chức vụ nầy rất được trọng vọng trong vòng tuyển dân của Chúa. Thầy tế lễ có rất nhiều quyền hành trong dân sự, ngay cả vua cũng phải hỏi ý kiến của người và, quan trọng nhất, họ là đại diện cho dân sự trước mặt Đức Chúa Trời.
Khi đến Ê-díp-tô, Lê-vi có ba người con trai là Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri, lúc Môi-se tu bộ dân trong đồng vắng chi phái nầy không có làm sổ bộ vì họ không ra trận. Người Lê-vi được Chúa chọn để thay thế cho “hết thảy con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên” (Dan 8:16), họ giúp đỡ thầy tế lễ, làm các công việc trong hội mạc và đền thờ. Chúng ta nên nhớ chỉ có hậu tự của A-rôn mới giữ chức thầy tế lễ (Xu 28:1; Dan 3:5-10).
Người Lê-vi không được chia phần trong đất hứa của Chúa. Bù lại, chi phái nầy được 48 thành ở rải rác trong xứ Palestine cùng các đồng cỏ chung quanh dùng để nuôi súc vật họ. Trong số các thành nầy, có sáu thành ẩn náu. Ba thành bên phía Đông (Gô-lan cho người Ma-na-se, Ra-mốt, thuộc Ga-la-át,2 cho người Gát, Bết-xe cho người Ru-bên) và ba thành bên phía Tây sông Giô-đanh (Kê-đe, Si-chem, Hếp-rôn). Khi một người, dù là dân Y-sơ-ra-ên hay khách ngoại bang kiều ngụ trong xứ, vì vô ý làm chết người thì được vào các thành nầy ẫn trốn, và thân quyến của nạn nhân không được vào đây báo thù. Người nầy sẽ ở trong thành cho đến khi thầy Tế Lễ Thượng Phẩm qua đời thì mới được trở về quê quán của mình (Dân số ký đoạn 35, Giô-suê đoạn 21). Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy sự phân chia các thành nầy rất đều, nhờ đó dân chúng luôn được gần gủi với các thầy tế lễ để được giúp đỡ về phương diện thuộc linh. Người Lê-vi được hưởng một phần mười các sản vật và hoa quả đầu mùa của dân sự, và họ cũng phải dâng lại một phần mười các của mình nhận được cho thầy tế lễ.
4. Giu-đa.
Ông là con thứ tư của Gia-cốp và Lê-a. Giu-đa có nghĩa là “ngợi khen”, vì khi sanh thêm được một trai, Lê-a rất mừng rỡ và ngợi khen Đức Chúa Trời.
Giu-đa có vợ người Ca-na-an và sanh ba con trai. Hai người con đầu là E-rơ và Ô-nan đều độc ác, nên bị Chúa giết. Theo tục lệ thời bấy giờ, vợ của anh phải gã cho em để lưu truyền nòi giống. Nhưng Giu-đa đã không theo tục lệ nầy vì hai người con trai lớn đã chết, ông sợ rằng Sê-la, người con thứ ba, cũng sẽ bị chung số phận. Ông gạt dâu mình là Ta-ma, vợ của E-rơ và Ô-nan, trở về nhà cha nàng, đợi đến khi Sê-la khôn lớn. Khi biết mình bị gạt, Ta-ma lập mưu đi lại với cha chồng và sanh đôi hai trai là Phê-rết3 và Sê-rách.
Về tánh hạnh, Giu-đa là người nhân hậu. Ông đã cứu sống Giô-sép vì đã đề nghị bán chớ không nên giết (Sa 37:26-28). Khi Giô-sép muốn giữ Bên-gia-min ở lại Ê-díp-tô, thì cũng chính Giu-đa đã đứng ra bằng lòng chịu ở lại thế Bên-gia-min để làm nô lệ (Sa 44:33-34). Kết quả là Giô-sép tỏ mình ra ngay, không giấu nữa (Sa 45:1).
Kinh Thánh cũng cho biết Giu-đa là cột trụ trong gia đình, sau Gia-cốp, chứ không phải trưởng nam Ru-bên. Vì lúc xuống Ê-díp-tô mua lương thực, khi bị Giô-sép chất vấn, chính Giu-đa đại diện cho anh em mình trình các lời lên với người; và khi dời sang xứ Ê-díp-tô, Gia-cốp đã chọn Giu-đa - chứ không phải Ru-bên - đi đến trước đặng xin Giô-sép đưa mình qua Gô-sen (Sa 46:28).
Lúc đến Ê-díp-tô, Giu-đa có ba người con trai là Sê-la, Phê-rết và Xê-rách cùng hai cháu là Hết-rôn và Ha-mun (con của Phê-rết). Khi tu bộ thì chi phái nầy có đến 74.600 người trai trẻ đánh trận được, lần tu bộ thứ hai trước khi vào xứ Ca-na-an có 76.500 người. Đó là chi phái đông dân nhất của Y-sơ-ra-ên. Chi phái Giu-đa được chia cho phần đất nằm về phía tây Biển Chết đến Địa Trung Hải, phía bắc giáp với chi phái Đan và Bên-gia-min, phía nam chạy dài đến đồng vắng Sin.
Giu-đa đã vô tình phạm tội ăn nằm cùng dâu mình nhưng ông biết ăn năn, nên được phước (Sa 38:26). Vì cớ tội ác của Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi, nên Gia-cốp chúc phước trưởng nam cho người con thứ tư là Giu-đa (49:3-12). Trong lời chúc phước nầy, ta nhận thấy ba điều:
1.- Ngợi khen
“Hởi Giu-đa! các anh em sẽ khen ngợi con...” đây là lời tiên tri chỉ về Đấng Mê-si. Đấng Cứu Thế được sanh ra từ dòng dõi nầy cho nên Giu-đa được ngợi khen. Ngoài ra, chi phái Giu-đa đã cung ứng người hùng Ca-lép4, quan xét đầu tiên Ô-ni-ên5, cùng Đa-vít, Sa-lô-môn... là những vị vua tài đức của Y-sơ-ra-ên.
2.- Quyền tể trị
“Tay con sẻ chận cổ quân nghịch...” nơi đây ta thấy Giu-đa được cho sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Giu-đa còn được gọi là “sư tử tơ” và trong Kh 5:5, Chúa Jêsus được gọi là “sư tử của chi phái Giu-đa”. Như chúng ta biết sư tử là vua của muôn thú, với dáng điệu oai nghi và sức mạnh phi thường, sư tử xứng đáng tượng trưng cho quyền hành và sức mạnh.
“Các con trai cha sẽ quì lạy trước mặt con”, “cây phủ việt”, tất cả đều tượng trưng cho quyền của một vị vua, quyền tể trị trên muôn loài, đây chỉ về đấng Mê-si. Vì Ngài sẽ được sanh ra từ dòng dõi nầy nên Giu-đa được những lời chúc đầy phước hạnh trên. Khi Đấng Cứu Thế trở lại, thì lời tiên tri nầy sẽ thành sự thật: Đức Chúa Trời “ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phi 2:9-11)
3.- Sự phồn thịnh
Các lời chúc về “nhành nho”, “rượu nho”, “gốc nho”, “sữa”... là những lời chúc về sự giàu có, thịnh vượng. Chi phái Giu-đa được chia cho phần đất rất lớn về phía cực Nam. Sản phẩm vùng đất nầy là nho và ô-li-ve. Nho để làm rượu và mật còn ô-li-ve để làm dầu. Vì vậy, Ca-na-an còn được gọi là xứ “đượm sữa và mật”.
“Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho, lừa con mình vào nhành nho tốt nhất”, cho thấy chi phái nầy gắn liền với dân tộc Y-sơ-ra-ên. Thật vậy, cho đến ngày nay dân Do-thái vẫn còn được gọi là dân Giu-đa (Jews hay Judahites), mặc dù xứ Giu-đa đã bị tiêu hủy vào năm 70 S. C., nghĩa là gần 2.000 năm rồi.
“Gốc nho” nói ở đây cũng còn là hình bóng của Chúa Jêsus. Ngài là gốc nho và cơ đốc nhân là nhánh nho (Giăng đoạn 15). Sữa còn có nghĩa là lời Chúa trong Kinh Thánh như trong IPhi 2:2 đã dạy.
5. Đan.
Đan có nghĩa là “xét đoán”. Ông là con của Gia-cốp và Bi-la, nàng hầu của Ra-chên. Khi ông ra đời, Ra-chên rất mừng vì nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã xét đoán công bình cho bà.
Khi đến Ê-díp-tô, Đan chỉ có một con trai là Hu-sim, đến lúc rời Ê-díp-tô, chi phái nầy có đến 62.700 tráng niên trên 20 tuổi đánh trận được, đến lần tu sổ bộ thứ hai, trước khi vào đất hứa, thì tăng lên 64.400 người. Lúc đi trong đồng vắng, chi phái nầy có nhiệm vụ phòng vệ nên họ đi phía sau dân sự (Dan 10:25). Chi phái Đan lãnh một phần đất phì nhiêu ở trung bộ Ca-na-an trên bờ Địa Trung Hải gồm các thành A-gia-lôn, Éc-rôn, Ên-thê-kê và Xô-rê-a, trở nên đông đảo, chiếm được thêm đất vượt quá giới hạn đã được chia cho từ trước.
Ô-hô-li-áp, thuộc chi phái Đan là người có tài dệt vải và thêu, đã được Môi-se dùng trong việc xây đền tạm cho Đức Chúa Trời (Xu 35:30-35). Quan xét Sam-sôn cũng thuộc chi phái nầy, ông đã xét đoán dân sự trong 20 năm, lúc đầu đã anh dũng đánh đuổi quân xâm lăng, giải cứu dân mình, nhưng về sau lại đắm say nữ sắc đến nổi thân bại danh liệt. Sau đó, ông ăn năn và dâng những giờ phút cuối của cuộc đời để diệt quân thù. Chi phái Đan quả là rắn lục bên đường, “cắn vó ngựa, làm cho kẻ cỡi phải té nhào” như trong lời chúc của Gia-cốp. Chi phái nầy, về sau đã đánh đuổi được dân La-át, chiếm xứ của họ, đã dựng hình tượng và dùng hậu tự của Môi-se làm thầy tế lễ6 để thờ Đức Giê-hô-va. Như vậy, họ đã xui dân chúng làm ô uế sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Cũng trong xứ Đan, vua Giê-rô-bô-am đã dựng tượng bò bằng vàng cho dân chúng thờ lạy (IVua 12:31).
Chi phái Đan ít chịu giúp đỡ các anh em mình trong việc chống trả ngoại bang, vì thế nữ quan xét Đề-bô-ra trong bài ca chiến thắng vua Gia-bin của dân Ca-na-an đã nói đến các chi phái không tích cực tham chiến, trong đó có chi phái Đan. Từ đó về sau, không thấy Kinh Thánh nhắc đến chi phái nầy nữa. Ngay cả trong Khải huyền, khi nói đến các chi phái được đóng ấn, Đan là chi phái duy nhất không được đề cập.
6. Nép-ta-li.
Chúng ta biết rằng Ra-chên được Gia-cốp thương yêu hơn Lê-a. Nhưng khi Gia-cốp có người con thứ tư, Ra-chên đem nàng hầu của mình là Bi-la đến cùng Gia-cốp. Bi-la sanh cho Gia-cốp Đan và Nép-ta-li. Nép-ta-li có nghĩa là đấu địch (Sa 30:8). Ra-chên cho rằng: “Tôi đã hết sức chống cự với chị tôi, và tôi được thắng”.
Khi đến Ê-díp-tô, Nép-ta-li có bốn con trai, khi rời Ê-díp-tô, chi phái nầy có đến 53.400 trai tráng. Lần tu bộ thứ hai, trước khi vượt qua sông Giô-đanh, chi phái nầy có 45.400 tráng niên trên 20 tuổi đánh trận được. Chi phái Nép-ta-li được chia cho phần đất phì nhiêu với phong cảnh đẹp đẽ phía Tây Bắc biển Ga-li-lê. Họ không đuổi tất cả dân Ca-na-an ra khỏi phần đất mình, mà lại chung sống với họ. Chi phái nầy đã chiến đấu một cách anh dũng đánh bại vua Gia-bin dưới sự lảnh đạo của nữ tiên tri Đề-bô-ra và Ba-rắc (Cac 5:18). Chi phái nầy cũng đã đáp lời kêu gọi của Ghê-đê-ôn và đánh bại dân Ma-đi-an (Cac 6:35,7:23).
Trong thời đất nước chia đôi, vì ở vùng cực bắc, chi phái nầy bị vua Sy-ri là Bên-Ha-đát đánh chiếm. Sau đó bị Tiếc-la-Phi-lê-se, vua A-si-ri chinh phục và bắt dân làm phu tù, vua nầy đã cho dân ngoại vào ở trong xứ. Về sau, Ê-sai đã nói tiên tri rằng: “đất Nép-ta-li, bên kia sông Giô-đanh7 trong xứ Ga-li-lê của dân ngoại được vinh hiển, dân đi trong tối tăm đã thấy sự sáng lớn... vì có một con trẻ sanh cho chúng ta... Ngài được xưng là Đấng Lạ Lùng, là Đấng Mưu Luận, là Đức Chúa Trời Quyền Năng, là Cha Đời Đời, là Chúa Bình An...” Thật vậy Đức Chúa Jêsus là sự sáng lớn, Ngài đã khởi đầu chức vụ tại xứ Ga-li-lê thuộc địa phận Nép-ta-li.
Đúng như lời chúc tiên tri của Gia-cốp, Nép-ta-li như nai bị nhốt trong chuồng, nhưng vì biết tranh đấu bằng cách nhờ cậy Chúa, nên đã được thoát và được tự do. Chi phái Nép-ta-li đã nhiều lần gan dạ chiến đấu bên cạnh anh em mình. Và mặc dầu bị gọi là xứ của dân ngoại, dân Nép-ta-li đã giang tay ra đón Chúa Jêsus trong khi dân thành Na-xa-rét chối bỏ Ngài (Mat 4:12-16). Thật vậy, xứ Ghê-nê-xa-rết, thành Ca-bê-na-um, thành Bết-sai-đa, thành Cô-ra-xin là những nơi Chúa tới lui nhiều nhất trong thời gian Ngài thi hành chức vụ tại thế. Dân Nép-ta-li hưởng được phước lớn vì đã nghe lời Chúa Jêsus giảng dạy và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm, nhờ đó mà nhiều người được cứu. Thật đúng như lời chúc tiên tri của Môi-se: “Nép-ta-li hưởng ân huệ cho thỏa nguyện, và phước lành của Đức Giê-hô-va cho đầy dẫy, chiếm được phương Tây và phương Nam”.
7. Gát.
Gát có nghĩa là “phước”, ông là con đầu lòng của Xinh-ba, nàng hầu của Lê-a. Sau khi Giu-đa ra đời, Lê-a thấy mình không sanh nữa nên đem Xinh-ba làm hầu cho Gia-cốp, và nàng hạ sanh Gát. Lê-a vui mừng vì cho rằng mình được phước.
Khi đến Ê-díp-tô, Gát có bảy người con trai. Lần tu bộ thứ nhất, chi phái Gát có 45.650 trai tráng. Trong đồng vắng, chi phái nầy đóng tại hướng nam của đền tạm cùng với chi phái Ru-bên và Si-mê-ôn. Lần tu bộ thứ nhì trước khi vào Ca-na-an, dân Gát còn lại 40.500 người.
Vì người Gát lưu luyến với phần đất phì nhiêu Ga-la-át bên nầy sông Giô-đanh thuận tiện cho việc chăn nuôi, nên đã không cùng với anh em mình vào đất hứa. Phần đất của họ ở về phía đông sông Giô-đanh, bắc giáp với chi phái Ma-na-se, nam là chi phái Ru-bên. Thật đúng như lời chúc tiên tri của Gia-cốp: “Còn Gát sẽ bị một đạo binh xông đánh, nhưng người xông đánh lại và đuổi theo”. Chi phái Gát phải luôn luôn tranh chiến với quân thù vây bọc chung quanh. Nhưng vì biết nhờ cậy Đức Chúa Trời, nên cuối cùng họ vẫn thắng.
Môi-se đồng ý cho các chi phái Ru-bên, Gát và phân nữa chi phái Ma-na-se ở lại bên phía đông sông Giô-đanh “vì họ có bầy súc vật rất nhiều” với điều kiện là phải theo anh em mình đánh chiếm các phần đất mà Đức Chúa Trời đã hứa cho dân Y-sơ-ra-ên (Dân số Ký đoạn 32). Những người trai trẻ trong chi phái Gát đã giữ đúng lời hứa, họ đã theo giúp Môi-se nên được người chúc phước như sau: “Người nằm nghỉ như một con sư tử cái. Người đồng lòng với Y-sơ-ra-ên làm xong công bình của Đức Giê-hô-va”. Và cũng để cho con cháu mình sau nầy vẫn giữ sự thờ phượng Đức Chúa Trời và sự hợp nhất của 12 chi phái, người Ru-bên và người Gát đã lập bàn thờ Ết (nghĩa là chứng) vì họ muốn bàn thờ nầy làm chứng giữa họ rằng “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời” (Gios 22:10-34).
Đặc điểm của chi phái Gát là mạnh mẽ, có tài đánh trận. Trong phần đất người Gát cũng có một thành ẩn náu là Ra-mốt (Gios 20:8). Từ chi phái nầy có Bát-xi-lai là bạn thân với vua Đa-vít và đại tiên tri Ê-li.
8. A-se.
A-se có nghĩa là hạnh phúc. Ông là con thứ nhì của Xinh-ba, nàng hầu của Lê-a. A-se có bốn con trai là Di-ma (Dim-na), Dích-và, Dích-vi, Bê-ri-a và một con gái là Sê-rách (bà nầy là một trưởng tộc). Lúc ra khỏi xứ Ê-díp-tô, chi phái nầy có 41.500 trai tráng; sau 40 năm đi trong đồng vắng, dân số lên đến 53.400 người, lần tu bộ dưới đời vua Đa-vít chỉ còn lại 26.000 người (ISu 7:40).
Chi phái nầy được đất tốt trên bờ biển Địa-trung-hải, giữa núi Cạt-mên và Li-ban, họ chẳng phải khó công chinh phục vùng nầy nhưng chỉ xâm nhập vào là được đất. Người A-se đã không đuổi các dân bản xứ mà lại sống lẫn lộn với họ.
Gia-cốp đã chúc tiên tri cho A-se như sau: “Do nơi A-se có thực vật ngon, người sẽ cung cấp mỹ vị cho các vua”, và Môi-se cũng chúc phước chi phái nầy: “Nguyện cho A-se được phước giữa các con trai Y-sơ-ra-ên, được đẹp lòng anh em mình, và được dầm chơn mình trong dầu”. Những câu nầy thật đã được ứng nghiệm. Đất rất phì nhiêu, màu mỡ, có nhiều mỏ, lại được ở ngay bờ biển nên rất thuận tiện cho việc buôn bán với người Phê-nê-xi. Chi phái A-se sống rất sung túc, nhưng cũng vì sự sung túc nầy nên về sau họ không dám liều mình giúp đỡ hai chi phái Sa-bu-lôn và Nép-ta-li tranh chiến với Si-sê-ra, quan thống lãnh đạo binh Ca-na-an với chín trăm thiết xa (Cac 5:17).
Vì quen với nếp sống sung sướng, người A-se đã trở thành ích kỷ, dễ chán nản, không chịu được gian khổ, không dám hy sinh để giúp đỡ anh em mình chống lại kẻ thù chung. Dân số chi phái về sau bị giảm rất nhiều, không còn giá trị nữa, đến nỗi không có tên A-se trong số những người cai quản các chi phái Y-sơ-ra-ên (ISu 27:16-22). Ngoài bà tiên tri An-ne (Lu 2:36), không còn ai là người có danh tiếng thuộc dòng dõi nầy. Chi phái A-se đã dạy cho chúng ta thấy rằng khi được phước nên cẩn thận kẻo bị cám dỗ mà sa ngã, và thay vì làm sáng danh Chúa lại trở thành một gương xấu cho hậu thế.
9. Y-sa-ca.
Con thứ chín của Gia-cốp, và là con thứ năm của Lê-a. Y-sa-ca có nghĩa là đền bù. Lê-a nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã ban cho bà người con nầy vì bà đã dâng nàng hầu của mình cho chồng.
Khi đến Ê-díp-tô Y-sa-ca có bốn con trai. Lần tu bộ thứ nhất, chi phái nầy có 54.400 tráng niên, lần tu bộ thứ nhì được 64.300 người và trong đời vua Đa-vít con số nầy lên đến 87.000 người (ISu 7:5).
Phần đất họ được làm sản nghiệp ở về phía bắc xứ Ca-na-an: đông giáp sông Giô-đanh và chi phái Gát, tây và nam giáp Ma-na-se, bắc giáp Sa-bu-lôn, có 16 thành với các làng xung quanh, gồm các thành Gít-rê-ên, Ki-sôn, Su-nem, En-đô-rơ, En-ga-nim, A-na-cha-rát, Bết-Sê-mết... và núi Tha-bô. Đây là vùng thung lũng phì nhiêu, rất dễ bị quân nghịch vây chiếm, đúng như lời chúc tiên tri của Gia-cốp: Y-sa-ca và con cháu là con lừa rừng, nằm nghỉ giữa chuồng, chịu gánh nặng những điều sưu dịch của các chủ ngoại bang, miễn là cho mình được ở trong đất đai đẹp đẽ. Tuy nhiên, dân Y-sa-ca cũng đã anh dũng chiến đấu chống Si-sê-ra, tướng của vua Gia-binh và đã theo giúp vua Đa-vít chống lại vua Sau-lơ ( ISu 12:32).
Chi phái Y-sa-ca có rất nhiều người tài giỏi như quan trưởng và thống lãnh quân đội Na-tha-na-ên, quan trưởng Ôm-ri, quan xét Thô-la, và hai vua của Y-sơ-ra-ên là Ba-ê-sa và Ê-la, con của Ba-ê-sa. Chi phái nầy đã vâng lệnh thầy tế lễ Ê-xê-chia gởi người đến Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt qua cùng với các chi phái khác ( IISu 30:18). Chi phái Y-sa-ca cũng được Môi-se chúc cho bình an và hạnh phúc: “Còn ngươi, Y-sa-ca, hãy hớn hở trong các trại mình!” (Phu 33:18).
10. Sa-bu-lôn.
Sa-bu-lôn là con thứ mười của Gia-cốp, và thứ sáu của Lê-a, sau đó bà còn sanh thêm nàng Đi-na. Sa-bu-lôn có nghĩa là nhà ở. Khi ông ra đời, mẹ ông nghĩ rằng cha ông sẽ ở cùng bà vì bà đã sanh đến sáu con trai.
Ông xuống xứ Ê-díp-tô cùng các anh em và ba người con là Sê-rết, Ê-lôn, và Gia-lê-ên. Khi rời Ê-díp-tô, chi phái nầy có 57.400 trai tráng, lần tu bộ thứ nhì tăng lên 60.500 người, là chi phái đứng vào hàng thứ tư về dân số.
Địa giới của chi phái Sa-bu-lôn không được biết một cách rõ ràng. Đại khái, Sa-bu-lôn được chia cho phần đất miền bắc, phía tây bắc giáp với chi phái A-se, đông bắc có Nép-ta-li, tây nam có Ma-na-se, đông nam có Y-sa-ca. Trong lời chúc phước, Gia-cốp mô tả Sa-bu-lôn như là “ở nơi gành biển, tức là nơi có tàu đậu, bờ cõi chạy về hướng Si-đôn” (Sa 49:13). Lời tiên tri nầy đã được ứng nghiệm phần nào vì Sa-bu-lôn được chia cho phần đất gần biển Ga-li-lê và Địa Trung Hải, giao dịch và buôn bán với các thành trên bờ biển. Tuy nhiên lảnh thổ Sa-bu-lôn không nằm trên bờ biển.
Người Sa-bu-lôn đã tích cực tham chiến cùng Ba-rắc và Ghê-đê-ôn để chống lại Si-sê-ra và dân Ma-đi-an (Cac 4:6-10; 5:14,18). Khi Đa-vít lên ngôi tại Hếp-rôn, cùng với các chi phái khác có 50.000 người Sa-bu-lôn đến giúp để chống lại vua Sau-lơ (ISu 12:33,40).
Chi phái nầy cũng đã cung ứng một quan xét là Ê-lôn, người cai trị được 10 năm. Trong sự chia đất mới, tiên tri Ê-xê-chi-ên đã chỉ định một phần cho Sa-bu-lôn, và trong thành Giê-ru-sa-lem mới, cũng có một cửa mang tên chi phái nầy (Exe 48:26,33).
Miền bắc chịu nhiều đau khổ vì phải tranh chiến với người A-si-ri, cuối cùng dân sự bị bắt làm phu tù (IIVua 15:29). Dân ngoại vào chiếm đóng phần đất nầy, vì vậy bị coi là phần đất tối tăm, xứ của dân ngoại. Tuy nhiên Ê-sai nói tiên tri rằng các chi phái nầy sẽ được phước lớn: “Dân đi trong tối tăm đã thấy sự sáng lớn; và sự sáng đã chiếu trên những kẻ ở xứ thuộc về bóng của sự chết” (Es 9:1). Sự sáng lớn ở đây chỉ về Đấng Christ, khi Ngài thi hành chức vụ tại thế, Ngài đã làm nhiều phép lạ tại xứ Ga-li-lê, thuộc phần đất Sa-bu-lôn và Nép-ta-li ngày trước, nhờ đó rất nhiều dân nơi đây trở lại đạo. Tất cả 12 sứ đồ của Đức Chúa Jêsus đều là người nguyên quán Ga-li-lê, thuộc lãnh thổ Sa-bu-lôn (ngoại trừ Giu-đa Ích-ca-ri-ốt[9]). Những đồn lũy của Sa-bu-lôn cứ đứng vững chống với người La-mã cho đến cùng.
11. Giô-sép.
Ông là con thứ mười một của Gia-cốp, và là con đầu lòng của Ra-chên, sanh ra tại Cha-ran. Giô-sép có nghĩa là “nguyện được tăng lên”. Vì son sẻ hơn chị là Lê-a, nên khi Ra-chên sanh Giô-sép thì nói: “Đức Chúa Trời đã rửa sự xấu hổ cho tôi rồi... cầu xin Chúa thêm cho tôi một con trai nữa” (Sa 30:23,24). Lời cầu nguyện đã được Chúa chấp thuận, về sau Ra-chên sanh thêm một trai nữa là Bên-gia-min.
Khi còn nhỏ, Giô-sép ở nhà với cha tại Hếp-rôn, trong khi các anh đi chăn chiên ngoài đồng vắng tại Si-chem. Giô-sép thuật lại với cha chuyện xấu của các anh mình. Như vậy, Giô-sép mặc dầu còn ít tuổi cũng đã tỏ ra là người can đảm, biết trọng lẽ phải, giữ gìn luân lý và lời Chúa như trong Xu 23:2 đã dạy: “Ngươi chớ hùa đảng đông đặng làm quấy; khi ngươi làm chứng trong việc kiện cáo, chớ nên trở theo bên phe đông mà phạm sự công bình”.
Gia-cốp yêu thương Giô-sép hơn cả, và đã ban cho ông một chiếc áo có nhiều màu (Sa 37:3). Ngày xưa, chỉ những người có địa vị cao trong xã hội mới được mặc loại áo nầy. Có lẽ Gia-cốp định lập Giô-sép làm trưởng tộc thay cho Ru-bên vì Ru-bên đã phạm trọng tội cùng ông.
Các anh của Giô-sép ngày càng ghen ghét ông hơn vì cha đã không yêu thương các con đồng đều. Việc Giô-sép thuật lại các điềm chiêm bao ngụ ý các anh sẽ phải phục tùng mình đã làm tăng lên sự căm giận của họ. Lúc đầu khi nghe các điềm chiêm bao nầy, Gia-cốp không đẹp lòng, nhưng về sau, giống như bà Ma-ri đối với Chúa Jêsus, đã “ghi các lời ấy vào lòng” (Sa 37:5-11; Lu 2:19,51).
Sự ghen ghét nầy ngày càng gia tăng, các anh chỉ chờ dịp để giết ông cho hả giận. Chúng ta học được nơi đây rằng nếu lòng ganh tị không được sớm dẹp đi, thì có thể đưa đến tội ác giết người dù người đó có cùng chung huyết thống.
Cơ hội trả thù đã đến khi Giô-sép vâng lệnh cha, một mình đến tìm các anh trong đồng vắng. Nhờ Ru-bên và Giu-đa can ngăn nên Giô-sép không bị giết nhưng bị bán cho người Ma-đi-an đem qua Ê-díp-tô làm nô lệ. Cuộc đời của Giô-sép gặp nhiều hoạn nạn và thử thách, nhưng ông vẫn trung tín với Chúa nên được nhiều phước hạnh. Chúa đã cho ông làm đến chức tể tướng của triều đình Ê-díp-tô, tước vị nầy tương đương với chức thủ tướng, chỉ dưới vua Pha-ra-ôn mà thôi.
Trong cuộc đối thoại với các anh, Giô-sép tỏ ra là người rất khiêm nhường. Ông đã không coi sự giàu sang uy quyền hiện nay là do tài sức ông tạo nên, nhưng do Đức Chúa Trời ban cho; sự hoạn nạn cũng không phải do âm mưu của các anh mà có, nhưng là do sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và ông là người được chọn để cứu cả gia đình lẫn dân Ê-díp-tô khỏi nạn đói. Thay vì đau khổ, oán giận các anh, Giô-sép coi hoạn nạn của mình là sự thử thách, rèn luyện để ông được lớn lên trong đức tin, là nguồn phước hạnh chứ không phải là hình phạt (Sa 45:7-8).
Giô-sép được vua Ê-díp-tô tôn trọng và yêu quí. Kinh Thánh cho thấy ông xin điều gì cũng được vua chấp thuận. Ông kết hôn với con gái của thầy cả thành Ôn, tên là Ách-nát và sanh hai trai là Ma-na-se và Ép-ra-im.
Sống trên đất khách là xứ thờ đa thần, Giô-sép chịu nhiều áp lực về tôn giáo, chính trị, phong tục..., nhưng ông vẫn giữ được sự trung tín với Đức Chúa Trời. Về sau, Giô-sép đem cả gia đình của cha và các anh em mình qua Ê-díp-tô chung sống để cùng hưởng sự giàu sang sung sướng. Chẳng những ông đã chiến thắng nhiều cám dỗ, lại còn là người độ lượng, không giữ lòng thù hận các anh mình.
Theo Phu 21:15-17, thì con trưởng nam được phần gia sản gấp đôi. Tuy không nói ra, nhưng Gia-cốp đã thực sự ban cho Giô-sép quyền nầy khi ông nhận hai con của Giô-sép làm con và cho mỗi người một phần gia tài ngang bằng với phần của các con ông (Sa 48:5-6). Việc nầy giúp cho Giô-sép trở thành tổ phụ của hai chi phái Ma-na-se và Ép-ra-im. Giô-sép cũng được hưởng một phần sản nghiệp của cha và là phần tốt nhất (Sa 48:22).
Vì Gia-cốp nhận hai con của Giô-sép làm con của mình cho nên nước Y-sơ-ra-ên thật ra gồm có 13 chi phái. Nhưng số 12 vẫn được dùng trong suốt cả Kinh Thánh khi nói về dòng dõi dân Do-thái, Chúa Jêsus cũng chọn 12 môn đồ, tượng trưng cho 12 người con của Gia-cốp. Khi Giô-suê chia đất Ca-na-an thì chia 12 phần cho 12 chi phái, vì chi phái Lê-vi đã được chọn để hầu việc Đức Chúa Trời nên chỉ có 48 thành mà thôi. Về sau, Khải huyền cũng chỉ liệt kê có 12 chi phái được đóng ấn, vì chi phái Đan không được nói đến.
Sau đây xin nói qua về chi phái Ma-na-se và Ép-ra-im, là hậu tự của Giô-sép:
1. Ma-na-se:
Ma-na-se có nghĩa là kẻ làm cho ta quên, vì sự chào đời của ông đã khiến cho Giô-sép rất vui mừng, quên đi điều buồn đau trong quá khứ (Sa 41:51). Ông là con đầu lòng của Giô-sép nhưng khi chúc phước thì Gia-cốp lại để tay trái lên đầu ông, người ngụ ý rằng ông sẽ phải thua em là Ép-ra-im.
Chi phái Ma-na-se, khi rời Ê-díp-tô, chỉ có 32.200 tráng niên trên 20 tuổi đánh trận được, sau 40 năm trong đồng vắng, trước khi vào đất Ca-na-an, tăng lên 52.700 người (Dan 26:34). Chi phái nầy được chia cho phần đất ở cả hai bên sông Giô-đanh. Một nữa chi phái ở lại phía đông sông Giô-đanh cùng chi phái Ru-bên và Gát. Một nữa thì ở về phía tây sông Giô-đanh, thuộc miền bắc của chi phái Ép-ra-im. Khi vào được Ca-na-an, chi phái Ma-na-se không đuổi dân bản xứ mà lại sống lẫn lộn với họ (Cac 1:27-28).
Chi phái Ma-na-se được nổi tiếng vì lòng dũng cảm và đã cung ứng được hai quan xét là Ghê-đê-ôn và Giép-thê. Chi phái nầy cũng có công giúp vua Đa-vít tranh chiến với Sau-lơ (ISu 12:31,37). Kh 7:6 cũng nói đến chi phái của Ma-na-se có 12.000 người được đóng ấn.
2. Ép-ra-im:
Ép-ra-im có nghĩa là hưng vượng bằng hai, vì khi sanh ông, Giô-sép nói rằng: “Đức Chúa Trời làm cho ta được hưng vượng trong xứ mà ta bị khốn khổ” (Sa 41:52). Sau khi sanh sống ở xứ Ê-díp-tô hơn 400 năm, chi phái nầy có được 40.500 trai trẻ đánh trận được, lần tu bộ thứ nhì còn lại 32.500 người. Chi phái Ép-ra-im được chia cho phần đất đồi núi ở trung bộ Palestine, phía bắc giáp với chi phái Ma-na-se, phía nam là chi phái Bên-gia-min, đông là chi phái Đan, tây là chi phái Ma-na-se và Gát.
Chi phái Ép-ra-im và Ma-na-se luôn có sự tranh cạnh nhau. Chi phái Ma-na-se có được số đông nhưng chi phái Ép-ra-im có tài chỉ huy, đã trở nên hùng mạnh và đứng đầu ở phương bắc, làm ứng nghiệm lời chúc phước của Gia-cốp[10]: “... song thể nào em nó cũng sẽ lớn hơn...” (Sa 48:19). Về sau khi nước Y-sơ-ra-ên bị chia đôi, chính chi phái Ép-ra-im đứng ra lãnh đạo dân ở phương bắc chống lại anh em mình thuộc xứ Giu-đa ở phương nam. Miền bắc do 10 chi phái kết hợp lại nên mang tên là Y-sơ-ra-ên, và cũng được gọi là Ép-ra-im (Es 7:2,5,9,17) chứng tỏ ảnh hưởng của chi phái nầy rất mạnh. Giê-rô-bô-am, vua nước Y-sơ-ra-ên, cũng thuộc chi phái Ép-ra-im. Chi phái nầy đã cung ứng rất nhiều người tài giỏi như Giô-suê, nhà lãnh đạo tài ba, người nối nghiệp Môi-se, nữ tiên tri Đề-bô-ra, và cũng là vị nữ quan xét duy nhất của dân tộc Y-sơ-ra-ên và đại tiên tri Sa-mu-ên, ông là người Lê-vi thuộc dòng dõi Cô-rê nhưng sống ở núi Ép-ra-im và nhập vào chi phái nầy.
Chi phái Ép-ra-im đã không trung tín với Chúa, khởi xướng việc thờ tượng bò vàng làm cho Đức Chúa Trời nổi giận và Ngài đã tiêu hủy xứ Y-sơ-ra-ên ở phía bắc. Dầu vậy, Chúa vẫn yêu thương dân của Ngài và đã đem họ trở về Giê-ru-sa-lem sau một thời gian dài bị lưu đày tại Ba-by-lôn (ISu 9:1-2) và Kh 7:8 cũng nói đến chi phái của Giô-sép[11] có 12.000 người được đóng ấn.
Giô-sép sống đến 110 tuổi, khi hấp hối, đã trăn trối là phải đem hài cốt ông về xứ mà Chúa đã hứa ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Sự việc nầy chứng tỏ thêm một lần nữa đức tin sắt đá của ông. Vì thế, xác ông đã không bị chôn trên đất Ê-díp-tô nhưng được hoàn lại để trong hòm đến 400 năm. Về sau, khi rời Ai-cập, các con cháu của Giô-sép đã giữ đúng lời thề với tổ phụ mình, giữ lời nguyện ước của người là đem hài cốt về Ca-na-an an táng tại Si-chem, thuộc phần đất của chi phái Ép-ra-im (Xu 13:19; Gios 24:32).
Tiến sĩ Scofield chú thích về Giô-sép như sau:
Dầu Kinh Thánh không ghi Giô-sép là hình bóng của Đấng Christ, nhưng cuộc đời của hai người có nhiều điểm giống nhau đến nỗi ta có thể nói không phải do sự tình cờ mà có được:
1. Chúa Jêsus và Giô-sép đều được Cha yêu thương một cách đặc biệt (Sa 37:3; Mat 3:17; Gi 3:35; 5:20);
2. Chúa Jêsus và Giô-sép đều bị anh em mình ghen ghét (Sa 37:4; Gi 15:25);
3. Chúa Jêsus và Giô-sép đều bị anh em mình chối bỏ, dầu rất đáng được tôn trọng (Sa 37:8; Mat 21:37-39; Gi 15:24,25);
4. Chúa Jêsus và Giô-sép đều bị anh em mình âm mưu để giết hại (Sa 37:18; Mat 26:3,4);
5. Các anh của Giô-sép dù không thật sự giết ông nhưng đã bán sang xứ khác cho biệt tích, thì cũng như đã giết ông; còn Đấng Christ đã thật sự bị dân Do-thái treo lên thập tự giá, nhưng Ngài đã khắc phục sự chết và sống lại (Sa 37:24; Mat 27:35-37);
6. Chúa Jêsus và Giô-sép đã trở nên nguồn phước cho dân ngoại. Cả hai đã yêu thương dân ngoại và được dân ngoại yêu thương lại. Giô-sép đã cưới vợ ngoại bang, còn Chúa Jêsus làm chồng Hội Thánh gồm cả dân ngoại (Sa 41:1-45; Cong 15:14; Eph 5:25-32);
7. Giống như Giô-sép đã khiến anh em hòa thuận và phục tùng mình thì Đấng Christ, khi Ngài trở lại, cũng sẽ làm như vậy đối với anh em mình là dân Do-thái (Sa 45:1-15; Phu 30:1-10; Os 2:14-18; Ro 11:1,15,25,26).
Thêm vào đó, khi đọc lời cầu nguyện của Đức Chúa Jêsus trong giờ phút cuối cùng và trên thập tự giá: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy khỏi tôi! Dầu vậy, xin ý Cha được nên” hoặc “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì.” Chúng ta cảm thông tâm trạng của Giô-sép khi ông bị các anh ám hại. Dù không muốn, nhưng ông đã chấp nhận nghịch cảnh theo ý Chúa và đã độ lượng tha thứ vì họ không biết điều họ làm.
Giáo sĩ Cadman đã kết luận về cuộc đời của Giô-sép như sau:
Từ các tổ phụ được chép trong Kinh Thánh, Giô-sép đã giữ một chỗ đứng riêng biệt. Ông là người gương mẫu có đời sống gần như trọn vẹn. Cũng giống như Đấng Christ, khi Ngài đến thế gian, đã có một đời sống hoàn toàn, không phạm tội, để làm gương cho cơ đốc nhân noi theo. Giô-sép biết quyết định làm những điều phải, đã làm trọn những trọng trách được giao phó. Ông biết tự chủ trong thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Ông có lòng độ lượng, vị tha nhưng cũng rất công bình chính trực. Ông rất kiên nhẫn khi gặp các thử thách đau buồn, dễ cảm thông và thương xót người khác. Ông đã nêu gương sáng về sự hiếu thảo và điều cao đẹp hơn cả là vẫn giữ được lòng tin kính Đức Chúa Trời trong suốt cuộc đời thăng trầm của ông. Kinh Thánh không chép rằng ông là hình bóng của Đấng Christ nhưng trong suốt cả Kinh Thánh không nhân vật nào có đời sống và việc làm trọn vẹn hơn ông. Chẳng những ông đã tha tội mà còn giải cứu những người đã âm mưu hại mình. Cũng giống như Cứu Chúa Jêsus, mọi người đều phải đến cùng ông để được cứu giúp cho khỏi chết.
12. Bên-gia-min.
Bên-gia-min là con trai út của Gia-cốp và Ra-chên. Ông là người duy nhất trong các anh em đã được sanh ra trên phần đất hứa là đất Ca-na-an. Việc sanh nở ông rất khó khăn, khiến Ra-chên đau đớn và trút linh hồn. Trong cơn hấp hối, bà đặt tên cho ông là Bê-nô-ni nghĩa là “con trai của sự đau đớn tôi” (Sa 35:16-18). Về sau Gia-cốp đổi tên lại là Bên-gia-min, tức: “con trai của tay hữu”.
Có ba người được Gia-cốp yêu thương hơn hết trong đời ông là Ra-chên, Giô-sép và Bên-gia-min. Sau khi Ra-chên qua đời, Giô-sép bị mất tích, chỉ còn lại Bên-gia-min, nên ông thương yêu người con út nầy như mạng sống mình. Lúc Giô-sép[12] đòi Bên-gia-min phải theo các anh qua Ê-díp-tô, Gia-cốp đã nói lên những lời rất thống khổ: con út cha sẽ chẳng đi với các con đâu; vì anh nó đã chết rồi, chỉ còn một mình nó mà thôi. Nếu có điều chi rủi ro xảy ra cho nó lúc dọc đường, tức nhiên các con làm cho kẻ tóc bạc nầy phải đau lòng xót dạ xuống âm phủ (Sa 42:38). Và khi Giô-sép muốn cầm giữ Bên-gia-min ở lại Ê-díp-tô, Giu-đa nói cùng Giô-sép rằng: “Cha thương em út tôi lắm đến đỗi hai linh hồn khắng khít nhau; nếu bây giờ, khi tôi trở về nơi kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, mà không có em út đó, thì khi vừa thấy con út không còn nữa, chắc người sẽ chết” (Sa 43:30-31). Các anh cũng rất yêu thương Bên-gia-min, có lẽ vì ăn năn tội đã gây ra cho Giô-sép khiến cha già đau buồn sầu khổ. Lúc Gia-cốp không chịu cho Bên-gia-min qua Ê-díp-tô thì Ru-bên đã đem hai con trai của mình để làm bảo đảm sẽ đem em về bình yên vô sự. Khi Giô-sép đòi bắt Bên-gia-min thì Giu-đa tự nguyện xin ở lại thay cho Bên-gia-min để làm tôi mọi cho người. Vậy cuộc đời của Bên-gia-min rất sung sướng hạnh phúc, được ấp ủ trong tình yêu thương che chở của cha lẫn các anh, chứ không phải như Giô-sép sống trong sự đắng cay ganh ghét của các anh mình.
Khi đến Ê-díp-tô, Bên-gia-min đem theo 10 người con (Sa 46:21), lúc rời xứ chi phái nầy được 35.400 trai tráng, lần tu bộ thứ nhì tăng lên 45.600 người (Dan 1:37; 26:41, trong thời vua Đa-vít có đến 59.434 người (ISu 7:6-12). Chi phái nầy được thừa hưởng phần đất nằm về phía tây hạ lưu sông Giô-đanh, trên có chi phái Ép-ra-im, dưới có Giu-đa, gồm các thành Giê-ri-cô, Giê-ru-sa-lem... về sau Giê-ru-sa-lem thuộc xứ Giu-đa.
Khi chúc phước, Gia-cốp nói tiên tri: “Bên-gia-min là một con chó sói hay cấu xé; ban mai đi đánh chết mồi, chiều phân chia mồi đã được” (Sa 49:27) có lẽ chỉ về tương lai của Bên-gia-min được hưởng sản nghiệp nhằm chỗ đất khô cứng, dân bản xứ rất mạnh mẽ và hung dữ, khó chinh phục. Vì vậy nên phải chinh chiến nhiều để giữ phần đất của mình.
Trong thời Các quan xét xảy ra một biến cố đau buồn cho chi phái nầy. Người Bên-gia-min đã che chở cho kẻ gian phạm tội, nên bị các chi phái Y-sơ-ra-ên hợp lại trừng trị. Cuộc tranh chiến nầy đã làm cho chi phái Bên-gia-min gần tuyệt chủng, chỉ còn lại 600 trai tráng (Cac 20:47). Về sau, dân Y-sơ-ra-ên nghĩ lại ăn năn nên bắt con gái của thành Gia-be, thuộc xứ Ga-la-át cho các người nầy làm vợ nhưng vẫn chưa đủ, nên dạy họ đi bắt thêm các con gái của thành Si-lô, thuộc chi phái Nép-ta-li cho đủ số 600 người (Cac 21:10,19-23).
Chi phái Bên-gia-min có rất nhiều người tài giỏi như tiên tri Giê-rê-mi, vua Sau-lơ (vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên), sứ đồ Phao-lô. Mặc dầu chi phái nầy lúc đầu theo giúp con của vua Sau-lơ là Ích-bô-sết để chống lại vua Đa-vít, (IISa 2:8-10), nhưng về sau thì trở lại giúp nhà Đa-vít. Đến khi đất nước bị chia đôi, họ vẫn trung thành với chi phái Giu-đa. Kh 7:8 nói chi phái Bên-gia-min có 12.000 người được đóng ấn.
Chương 6: Kết luận:
Đức Chúa Trời có một chương trình cứu chuộc cho loài người. Câu chuyện về tuyển dân của Chúa cũng nằm trong chương trình nầy. Bài học về dân Y-sơ-ra-ên cho chúng ta thấy tiến trình của Cơ đốc nhân từ lúc được chọn, trải qua các đấu tranh để thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, và cuối cùng bước chân vào đất hứa (Thiên đàng).
Đức Chúa Trời là thành tín, dù rằng mọi người đều bất toàn, có nhiều khuyết điểm, đã làm cho Chúa buồn phiền. Ngài như một người Cha hiền từ luôn luôn trông chờ con mình trở lại. Các lời Ngài phán sau khi A-đam và Ê-va phạm tội, giao ước đầu tiên của Ngài với loài người sau cơn Đại hồng thủy, giao ước của Ngài với Áp-ra-ham, các lời nói tiên tri qua sự chúc phước của Y-sắc, Gia-cốp, Môi-se, đã được ứng nghiệm một cách lạ lùng. Mặc dầu nhân loại, như một đứa con ương ngạnh, đã hết lần nầy đến lần khác tiếp tục làm trái thánh ý của Ngài, nhưng Đức Chúa Trời đầy tình yêu thương vẫn đang dang rộng cánh tay ra để đón tiếp những người con lạc lối. Như trong lịch sử 12 chi phái Y-sơ-ra-ên, Thượng Đế có những trả lời siêu nhiên trong hoàn cảnh mà loài người chúng ta cho là vô vọng. Chúng ta hãy lắng nghe lời phán của Ngài, cố gắng làm đẹp ý Ngài để thấy sự kỳ diệu trong tiến trình làm con Thiên Chúa.
Mùa Hè 1999
Phụ bản: Bản đồ 12 chi phái Y-sơ-ra-ên:
Địa giới của các chi phái khác nhau tùy theo tài liệu, vì quá xưa và các di tích không có nhiều, nên ranh giới trong bản đồ nầy chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi. Chi phái Lê-vi không được chia đất, họ chỉ nhận lãnh 48 thành, trong đó có 6 thành ẩn náu (chấm đỏ lớn).
Các Bản Tóm Tắt: Dòng Dõi Của Mười Hai Chi Phái Y-sơ-ra-ên:
Chú thích: Chữ đỏ đậm: Dòng dõi vua Đa-vít và Chúa Jêsus.
Chữ xanh nghiêng: Chỉ về phái nữ, vợ (lề mặt) hay con gái (lề trái).
Mỗi ô là một đời, từ cha tới con.
Hậu tự A-đam
A-đam | Ca-in | Hê-nóc | Y-rát | Mê-hu-da-ên | Lê-méc A-đa Sila | Gia-banh và Giu-banh Tu-banh-Ca-in và Na-a-ma |
Ê-va | A-bên |
| Sết | Ê-nót | Kê-nan | Ma-ha-ha-le | Giê-rệt | Hê-nóc | Mê-tu-sê-la | Lê-méc | Nô-ê |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
===========================
==========================
Hậu Tự Của Áp-ra-ham
| A-ga | Ích-ma-ên | 1. Nê-ba-giốt 2. Kê-đa 3. Át-bê-ên 4. Mi-bô-sam 5. Mích-ma 6. Đu-ma | 7. Ma-sa 8. Ha-đa 9. Thê-ma 10. Giê-thu 11. Na-phích 12. Kết-ma |
| | | Ê-sau A-đa[16] | Ê-li-pha[17] |
| | | Bách-mát[18] | Rê-u-ên[19] |
| | | Ô-hô-li-ba-ma[20] | Giê-úc, Gia-lam, Cô-ra |
| | | Giu-đích | Không thấy có con |
Tha-rê | Áp-ra-ham Sa-ra | Y-sác Rê-be-ca | Gia-cốp[21] Lê-a | 1. Ru-bên 2. Si-mê-ôn 3. Lê-vi 4. Giu-đa 9. Y-sa-ca 10. Sa-bu-lôn |
| | | Bi-la (nàng hầu của Ra-chên) | 5. Đan 6. Nép-ta-li |
| | | Xinh-ba (nàng hầu của Lê-a) | 7. Gát 8. A-se |
| | | Ra-chên | 11. Giô-sép 12. Bên-gia-min |
| Kê-tu-ra | Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác, Su-ách. |
| | Út-xơ | | |
| | Bu-xơ | | |
| | Kê-mu-ên | | |
| Na-cô[22] | Kê-sết | | |
| Minh-ca | Ha-xô | | |
| | Phin-đát | A-ram | |
| | Dít-láp | | |
| | Bê-tu-ên | La-ban Rê-be-ca | Lê-a và Ra-chên.(Hai con của La-ban, vợ của Gia-cốp) |
| Ha-ran | Lót, Dích-ca, Minh-ca (Minh-ca lấy bác mình là Na-cô) |
| | | | | |
============================
Mười Hai Chi Phái Y-sơ-ra-ên
Tên của các nhân vật trong bản trên đây có thể hơi khác nhau tùy sách và đoạn trong Kinh Thánh, vì nhiều người có 2 tên.
Thời gian từ Dân số Ký đến Sử ký là 1.000 năm, và vì chữ Hy-bá-lai không có phụ âm nên dể bị sai trật khi chép đi chép lại.
Cũng có thể là do những lổi lầm của người sao lại, họ có thể chép sai.