Hôm nay:

BÀI VIẾT- BÀI LUẬN- GHI CHÚ

Xem tất cả Các bài luận- viết »

ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC

Xem tất cả Đời sống Cơ Đốc»

CHUYÊN MỤC HỎI ĐÁP

Xem tất cả Câu hỏi đáp »

.

Phần 3- Chúa Giê-xu Christ

Đăng bởi Bùi Qúy Đôn | Thứ Ba, 2 tháng 2, 2016

In bài
Cỡ chữ: +A =A -A







Câu 60.Đức Chúa Cha. Tổ tiên của Chúa Giê-xu.
Bảng gia phổ trong LuLc 3:23-38 phải chăng là gia phổ của bà Ma-ri, mẹ về phần xác của Chúa chúng ta, qua ông tổ tên là Na-than? Na-than là ai? Kinh Thánh có cho chúng ta biết tên cha mẹ của bà Ma-ri không? Nếu Lu-ca chương 3 chép gia phổ của bà Ma-ri, tại sao tên bà lại không được kể ra? Phải chăng bảng gia phổ trong Ma-thi-ơ chương 1 là của Giô-sép, qua Sa-lô-môn?

Na-than là con trai của Đa-vít và Bát-sê-ba, như thế là em một của Sa-lô-môn (ISu1Sb 3:5). Cha của bà Ma-ri tên là Ê-li (hay Hê-li LuLc 3:29), Kinh Thánh không thấy chép gì cả, nhưng truyền khẩu rằng đó là tên ông, còn tên mẹ bà Ma-ri là An-ne. Sở dĩ tên Giô-sép được kể ra trong bảng gia phổ ở Lu-ca 3, vì trong cả bảng đó, không có tên người đàn bà nào cả. Bảng gia phổ trong Ma-thi-ơ 1 ghi tên Giô-sép, hậu duệ của Đa-vít qua Sa-lô-môn. Theo Gie Gr 22:24-30, thì Giô-sép hoặc hậu duệ ông, không thể nối ngôi cho Đa-vít. Cô-nia (trong 22:24) chính là Giê-cô-nia (Mat Mt 1:11, 12. Vì Chúa Giê-xu là dòng dõi của Ma-ri, là “dòng dõi của người nữ” (SaSt 3:16) chớ không phải dòng dõi của Giô-sép, cho nên Ngài mới được thừa kế ngôi của Đa-vít.



Câu 61.Sự sanh ra của Chúa chúng ta.
Giáo lý về Chúa Giê-xu được một trinh nữ sanh ra có thật sự quan trọng và chính yếu cho Cơ Đốc giáo không?

Vâng... Kinh Thánh Cựu Ước đòi hỏi Ngài được một trinh nữ sanh ra (EsIs 7:14) và Tân Ước đã công bố như vậy (Mat Mt 1:18-25). Ngoài ra, nếu Ngài quả thật là con trai Giô-sép, thì Ngài bị cất quyền được nối ngôi Đa-vít, vì Giô-sép là hậu duệ của Giê-cô-nia mà trong Gie Gr 22:24-30, Đức Chúa Trời đã tuyên bố rằng không hề có hậu duệ nào của Cô-nia được ngồi trên ngôi Đa-vít. Ma-thi-ơ đoạn 1 cho thấy Giô-sép là con cháu của Giê-cô-nia, một hình thức khác của tên Cô-nia, trong khi Lu-ca đoạn 3 cho thấy Chúa Giê-xu vốn là con cháu Đa-vít theo phía bà Ma-ri, hậu duệ của một con trai của Đa-vít là Na-than chớ không phải theo phía Giô-sép, hậu duệ của Sa-lô-môn qua Cô-nia. Không có ai là Cơ Đốc nhân mà phủ nhận việc Chúa chúng ta vốn do một trinh nữ sanh ra.



Câu 62.Được Đức Chúa Cha sanh ra.
HeDt 1:5 có nghĩa gì? Đức Chúa Con vốn luôn luôn ở cùng Đức Chúa Cha, hay Ngài được Đức Chúa Cha 'sanh ra' sau buổi tạo thiên lập địa?

Con Đức Chúa Trời không hề được 'Đức Chúa Cha sanh ra' theo nghĩa là đến một lúc nào đó, Ngài mới bắt đầu hiện hữu. Ngài vốn 'không có ngày đầu mới sanh, cũng không có ngày rốt qua đời' (HeDt 7:3), 'gốc tích của Ngài bởi từ xưa, từ trước vô cùng' (MiMk 5:2). Câu HeDt 1:5 vốn được trích dẫn từ Thi Tv 2:7 'Ngươi là con ta, ngày nay, ta đã sanh ngươi' còn những câu khác thì trích từ IISa 2Sm 7:14 “Ta sẽ làm Cha người, người sẽ làm Con ta” không hề phủ nhận tính cách tự hữu hằng hữu từ đời đời đến đời đời của Chúa chúng ta.
Câu trích dẫn từ Thi Tv 2:7 “Ngày nay ta đã sanh ngươi” ám chỉ ngày Chúa Giê-xu sống lại sau khi Ngài đã chịu chết rồi được sanh lại một lần nữa (đối chiếu với CoCl 1:18, Cong Cv 13:33). Trong CoCl 1:15, Ngài được gọi là “Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên”. Trong KhKh 3:14, Ngài được gọi là “Đấng làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của Đức Chúa Trời”. Ý nghĩa của mấy câu Kinh Thánh này, là trong cõi thọ tạo, Ngài vốn đứng hàng đầu, như địa vị của người con đầu lòng, là trưởng nam đứng đầu trong gia đình vậy. Ngài vốn là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng và địa vị của Ngài là “con trai quản trị nhà Chúa” (HeDt 3:6). Thần tánh trọn vẹn của Chúa chúng ta đã được chứng minh trong nhiều khúc Kinh Thánh (chẳng hạn, xin đọc những trích dẫn từ Cựu Ước ứng dụng cho Ngài trong Hê1, và đối chiếu với GiGa 1:1-5 và CoCl 1:16, 17).



Câu 63.Thần tánh của Chúa chúng ta.
Làm sao chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời?

Thần tánh của Chúa chúng ta được chứng minh như sau:
1. Tất cả các tên của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước đều hàm chứa trong Chúa Giê-xu Christ.
2. Chúa Giê-xu nhận cho người ta thờ lạy Ngài.
3. Ngài tha tội.
4. Ngài tỏ ra là toàn năng.
5. Ngài tỏ ra là toàn tri.
6. Ngài khẳng định mình toàn tại.
7. Tân Ước khẳng định thần tánh của Chúa Giê-xu.



Câu 64.Chúa Giê-xu phải là Đức Chúa Trời không?
Con gái tôi là cô giáo, và có mấy học sinh hỏi nó có tin rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời không? Con gái tôi nói: “Có” và trích dẫn những câu Kinh Thánh như GiGa 1:1-15. Chúng yêu cầu con gái tôi giải thích 14:28 “Các ngươi từng nghe ta nói rằng: Ta đi, và ta trở lại cùng các ngươi. Nếu các ngươi yêu mến ta, thì sẽ vui mừng về điều ta đi đến cùng Cha, bởi vì Cha tôn trọng hơn ta”. Chúng bảo rằng câu này chứng minh là Đức Chúa Trời vốn cao trọng hơn Chúa Giê-xu, và thêm rằng khi Chúa Giê-xu sống trên thế gian này, Ngài vẫn cầu nguyện với Cha ở trên trời. Phải trả lời câu hỏi này như thế nào?

Câu trả lời là trong việc nhập thể, Con Đức Chúa Trời đã trở thành Con người. Cả câu chuyện đã được kể lại trong đoạn sách hết sức kỳ diệu bắt đầu ở sách Phi Pl 2:5 “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có. Ngài vốn có hình (hoặc địa vị đẳng cấp) Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự”. Chúa Giê-xu làm người nhất định phải nói về Đức Chúa Trời rằng “Cha tôn trọng hơn ta”; nhưng Đức Chúa Giê-xu với tư cách Con Đức Chúa Trời, sẽ không bao giờ nói như vậy.





Câu 65.Vấn đề Chúa Giê-xu được một trinh nữ sanh ra.
Phải chăng chúng ta tin rằng Chúa Giê-xu vốn được một trinh nữ sanh ra là đều hết sức cần thiết để tách rời nhơn tánh của Đấng Christ khỏi tánh hay phạm tội mà cả dòng giống loài người đều thừa hưởng của A-đam? Nếu quả như thế, thì vấn đề chỉ được giải quyết có phân nửa mà thôi. Vì ảnh hưởng của người mẹ vốn rất quan trọng, vượt hẳn ảnh hưởng của người cha trong thời kỳ thai nghén. Bà Ma-ri vẫn san sẻ bản tính hay phạm tội của mình cho con, hay là Đức Chúa Trời ngăn chận việc di truyền đó? Nếu vậy tại sao Ngài lại không ngăn chận phần di truyền của cả hai người, mà chỉ ngăn chận phần di truyền của chỉ một người thôi?

Dĩ nhiên là Ngài vốn có thể làm như vậy, nhưng vấn đề chính là Ngài đã thật sự làm gì theo phần ký thuật, thì Ngài đã tạo ra cho Con Ngài một thân thể và gởi nó vào lòng một trinh nữ cũng như trong buổi tạo thiên lập địa. Ngài đã tạo ra hình hài của con người đầu tiên và đặt người ấy trong vườn Ê-đen vậy. Tại sao chúng ta lại nghĩ rằng việc Đức Chúa Trời đã làm như vậy là “khó tin nổi”? Chỗ khó tin đích thực đối với những người chối bỏ lời chứng của Kinh Thánh, chối bỏ những việc siêu nhiên, là do họ có một quan niệm sai lầm về Đức Chúa Trời là ai, và Ngài có thể làm được gì.



Câu 66.Con đời đời.
Chúa Giê-xu có hiện hữu trước khi được bà Ma-ri sanh ra không? Có người nói là Ngài vốn chưa có, trong khi Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Ngài vốn ở trong lòng Đức Chúa Cha từ trước vô cùng, và bất chấp GiGa 1:12, họ hỏi: “Nếu Chúa Giê-xu là Ngôi Lời, thì có phải là chính Ngài đã đến với Giê-rê-mi hay không, khi Kinh Thánh chép rằng Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng Giê-rê-mi?

Con Đức Chúa Trời vốn có từ trước vô cùng và sẽ tồn tại đời đời, vì Ngài vốn “không có ngày đầu mới sanh, cũng không có ngày rốt qua đời” (HeDt 7:3). Ngài cũng chính là (Ngôi) Lời đời đời của Đức Chúa Trời, cho nên tôi không có chút gì để nghi ngờ việc chính Ngài đã tiếp xúc với Giê-rê-mi và tất cả các nhà tiên tri khác trong Cựư Uớc Ngài vốn luôn luôn là Đấng mạc khải Đức Chúa Trời cho loài người. Đó chính là ý nghĩa thật sự của 1:18 “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết”. Vì trước khi nhập thể để trở thành con trai của trinh nữ Ma-ri, Ngài không hề có tên là Giê-xu. Như thế, với tư cách Con người, Ngài có ngày đầu mới sanh nhưng với tư cách Con Đức Chúa Trời, Ngài không hề có khởi điểm.





Câu 67. Gia phổ của Ma-ri.
Có chỗ nào trong Cựu Ước chép về gia phổ của bà Ma-ri là mẹ phần xác của Chúa Giê-xu, bắt đầu từ bà Ma-ri trở lui về tận Đa-vít không?

Dĩ nhiên là tên bà Ma-ri không hề được chép trong Cựu Ước, nhưng việc gia phổ của bà được chép trong Lu-ca đoạn 3 thì chẳng bị ai phản đối cả. Cần chú ý là trong câu 23 của chương sách đó, Giô-sép được đề cập với tư cách “con Hê-li”, nhưng chữ con vốn được in nghiêng ngụ ý là nó do các dịch giả thêm vào chớ thật ra không có trong nguyên văn Hi Lạp. Đây là luật chung cho cả bảng gia phổ của Lu-ca. Tiến sĩ Scofield có nhận định qua về khúc sách ấy trong Lu-ca là đúng, chẳng có gì để nghi ngờ cả. “Trong Ma-thi-ơ mà chúng ta có bảng gia phổ của Giô-sép không bị ai vấn nạn, chúng ta được cho biết rằng Giô-sép là con trai của Gia-cốp (Mat Mt 1:16). Vậy, theo ý nghĩa nào, trong sách Lu-ca, ông lại được bảo là con Hê-li? Theo lẽ tự nhiên, ông không thể vừa là con của Gia-cốp, vừa là con của Hê-li. Nhưng Lu-ca không hề viết rằng Hê-li sanh Giô-sép, cho nên cách giải nghĩa tự nhiên nhất là Giô-sép là con rể của Hê-li, cũng là hậu duệ của Đa-vít. Như vậy, việc ông được bảo là 'con Hê-li' (chữ con không có trong nguyên bản Hi văn mà do các dịch giả thêm vào) sẽ phù hợp với cách nói của người Do Thái (đối chiếu với ISa1Sm 24:16). Do đó, kết luận không tránh vào đâu được, là phổ hệ trong sách Lu-ca là phổ hệ của bà Ma-ri, và Giô-sép là “con Hê-li” vì ông cưới con gái của Hê-li. Bảng gia phổ trong sách Lu-ca là của bà Ma-ri mà cha là Hê-li, vốn là hậu duệ của Đa-vít” (Theo Scofield).





Câu 68.Em-ma-nu-ên.
Tại sao trong Mat Mt 1:23 chép: “Ngài ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên”, nhưng Ngài đã không được gọi bằng tên Em-ma-nu-ên?

Quả thật Chúa Giê-xu đã không được gọi bằng tên Em-ma-nu-ên trong Kinh Thánh, nhưng hãy chú ý là Ma-thi-ơ viết: “Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”. Vậy Ngài vẫn được người thuộc về Ngài gọi là “Em-ma-nu-ên” cũng như vẫn nói rằng “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”. Như thế là lời tiên tri ấy quả đã được ứng nghiệm.



Câu 69. Chức vụ theo ba phương diện của Chúa chúng ta.
Chúa Giê-xu làm thế nào để thực hiện đầy đủ cả ba chức vụ tiên tri, thầy tế lễ và vua?

Trong những ngày sống trong xác thịt, Chúa chúng ta đã thi hành chức vụ tiên tri bằng cách truyền giảng thông điệp của Đức Chúa Trời. Ngài thi hành công tác ấy chẳng những chỉ bằng lời nói, mà bằng cả hành động và chính con người của Ngài nữa. Ý nghĩa của từ ngữ “nói tiên tri” là “nói ra, nói lên, quảng bá”. Hiện nay, Ngài đang thi hành chức vụ thầy tế lễ bằng việc đảm đương mọi trọng trách của một thầy tế lễ bên hữu Đấng Oai Nghiêm, để cầu thay cho dân Ngài Ngài sẽ phô bày tính cách đế vương của Ngài khi sẽ tái lâm, làm “Đấng Chủ tể hạnh phước, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi Chúa (ITi1Tm ITi6:15).



Câu 70.Chúa Giê-xu chịu cám dỗ.
Phải chăng Chúa Giê-xu phải chịu ma quỉ cám dỗ, vì Ngài vốn có một thân thể có thể phạm tội giống như chúng ta, hầu có thể cứu giúp những kẻ bị cám dỗ?

Kinh Thánh chép rằng: “Ngài phải chịu làm giống như anh em mình trong mọi sự, hầu cho đối với Đức Chúa Trời, trở nên thầy tế lễ thượng phẩm, hay thương xót và trung tín đặng đền tội cho chúng dân. Vả, vì chính mình Ngài chịu khổ trong khi chịu cám dỗ, nên có thể cứu những kẻ chịu cám dỗ vậy” (HeDt 2:17, 18). Chúng ta cần thận trọng, e có thể tiếp nhận hoặc đưa ra một định nghĩa sai chữ 'cám dỗ' đã được dùng cho Ngài. Ngài vốn chịu cám dỗ về đủ mọi phương diện y như chúng ta, nhưng chẳng phạm tội (HeDt 4:15). Nghĩa là Ngài không hề bị tội lỗi vốn có sẵn từ bên trong thử thách hay cám dỗ Ngài. Nhưng Ngài vốn thấu rõ mọi người chúng ta, do đó, đã trở thành nguồn tiếp cứu trợ giúp không hề thất bại cho chúng ta “Vậy chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (HeDt 4:16).



Câu 71.Tính cách trọn vẹn, không chỗ chê trách của Đấng Christ.
Phải chăng ông dạy rằng Chúa Giê-xu không thể phạm tội được? Vậy thì Ngài đã chịu cám dỗ ở đâu? Phải chăng Kinh Thánh dạy rằng Ngài từng chịu cám dỗ y như chúng ta? Và phải chăng Kinh Thánh cũng chép rằng Ngài cũng là một người yếu đuối như chúng ta?

Không, Kinh Thánh không hề dạy như vậy. Bạn đã lẫn lộn Ngài với Ê-li hoặc Phao-lô hay Ba-na-ba đó (Gia Gc 5:17; Cong Cv 14:15). Chúa chúng ta quả thật là một Con người, nhưng khác với những người khác, là Ngài vốn không có tội lỗi từ bên trong. Điều này giải thích cho mệnh đề chót của HeDt 4:15 không phải là Ngài “không thể phạm tội” nhưng là “chẳng phạm tội”. Ngài tự phân rẽ khỏi tội, không để cho bị nhiễm tội. Khi chúng ta gặp cám dỗ thì có sự quyến rũ, lôi kéo từ bên trong nhưng với Chúa Giê-xu thì không có như vậy, vì trong Ngài không có tội lỗi phục sẵn ở đó. Nếu có ai cho rằng người không thể phạm tội thì cũng không bao giờ chịu cám dỗ, thì chỉ cần trả lời rằng sự cám dỗ thật sự có nghĩa là gặp thử thách. Nếu nói rằng Chúa chúng ta không thể chịu cám dỗ, thì chẳng khác gì bảo rằng vàng thật không thể bị thử lửa, không thể chịu thử thách, kiểm nghiệm xem có phải đó là vàng ròng hay không. Hoặc như nói rằng một chiến luỹ bất khả xâm phạm là một thành trì không hề bị tấn công. Mặc dầu có chỗ khác nhau quan trọng giữa Chúa Giê-xu với chúng ta, Ngài vẫn có thể thông cảm với chúng ta vì biết rằng trong mỗi người chúng ta đang có sẵn điều gì, và nhờ tình yêu thương Ngài, nhờ mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài như các chi thể đối với thân, khi chúng ta chịu khổ, thì chính Ngài cũng cùng chịu khổ với chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu người Na-xa-rét đã thất bại khi chịu thử thách, đã chịu thua sự cám dỗ của Sa-tan thì điều ấy không hề có nghĩa là Đức Chúa Trời trong xác thịt có thể phạm tội, nhưng chứng minh rằng Chúa Giê-xu người Na-xa-rét không phải là Đức Chúa Trời nhập thể. Tạ ơn Đức Chúa Trời về cuộc cám dỗ trong đồng vắng mà kết quả đã chứng minh rằng Chúa Giê-xu người Na-xa-rét quả thật là Em-ma-nu-ên, là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Hơn nữa, nếu bảo rằng Chúa Giê-xu đã có thể phạm tội lúc Ngài sống trên đất này, thì giờ đây, Ngài đã được cất lên trời rồi, Ngài sẽ còn có thể phạm bao nhiêu tội nữa? Xin đừng bao giờ nghĩ như thế! Con người ngự bên hữu Đức Chúa Cha vốn là một với Đức Chúa Cha trong Ngài cũng như trong Đức Chúa Cha không hề có gì thay đổi hay cả đến bóng dáng của sự đổi thay nữa.




Câu 72.Sự vô tội của Đấng Christ.
Làm thế nào việc Đấng Christ được trinh nữ sanh ra lại cứu được loài người khỏi tội đầu tiên của A-đam? Phải chăng một đứa trẻ chỉ nhận phần bản tính của cha chớ không nhận của mẹ, cho nên, vì Đấng Christ vốn được thai dựng bởi Đức Thánh Linh nên sanh ra ngoài vòng nguyên tội, vì không có bản tính của người cha?

Việc Chúa chúng ta ở ngoài vòng nguyên tội không phải là hậu quả do việc Ngài vốn được một trinh nữ sanh ra. Dĩ nhiên là một đứa trẻ nhận cả hai phần bản tính của cha và mẹ. Nhưng trong trường hợp của Chúa Giê-xu vấn đề là cả một phép lạ, và bởi quyền phép Đức Thánh Linh, Con Đức Chúa Trời đã được bảo vệ được biệt riêng khỏi mọi dấu vết của nguyên tội. Cùng một Đức Chúa Trời đã tạo ra một thân thể cho A-đam và đặt ông vào vườn Ê-đen, cũng đã tạo ra một thân thể cho Con Ngài và đặt con đó vào lòng một trinh nữ. Xem HeDt 10:5.
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng giáo lý về việc Chúa chúng ta được một trinh nữ sanh ra là không quan trọng. Thật ra, giáo lý ấy là một phần thiết yếu cho đức tin chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu quả thật là con trai Giô-sép, thì Ngài không bao giờ được quyền nối ngôi tổ phụ mình là Đa-vít, vì trong trường hợp đó, ông không phải là người duy nhất còn lại của dòng dõi Đa-vít (về mặt này thì ông còn phải bị tra xét theo thứ bậc để được nối ngôi); ông lại là một hậu duệ của Cô-nia, con trai Giê-hô-gia-kim mà con cháu bị truất quyền nối ngôi nữa (đối chiếu Cong Cv 22:24-30 với Gie Gr 23:5, 6).




Câu 73.Một lịnh truyền kỳ lạ.
Việc Chúa Giê-xu thường ra lịnh cho những người được Ngài chữa bịnh cho không được nói lại hành động của Ngài cho người khác biết, có nghĩa gì? Xem LuLc 8:56; Mat Mt 9:30 và những khúc sách tương tự.

Tiến sĩ Scofield có một nhận định về 16:20 khiến chúng ta được sáng tỏ về vấn đề trên như sau: “Các môn đệ Chúa từng truyền giảng rằng Chúa Giê-xu là Đấng Christ, nghĩa là Nhà Vua của giao ước, của Vương quốc được hứa với dân Do Thái, và “nước ấy đã gần kề”. Trái lại, Hội Thánh Ngài cần được thiết lập trên nền tảng của Đấng bị đóng đinh, từ kẻ chết sống lại thăng thiên làm “đầu của Hội Thánh trong mọi sự” (Eph Ep 1:20-23). Lời chứng trước đã kết thúc, nhưng lời chứng sau vẫn chưa sẵn sàng, vì huyết của giao ước mới vẫn chưa bị đổ ra, và Chúa chúng ta chỉ mới bắt đầu nói đến sự chết và sống lại của Ngài (c.21). Đây là một khúc quanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng”. Hơn nữa, về Mac Mc 8:22-26, ông viết: “Hành động của Chúa chúng ta ở đây vốn có ý nghĩa hơn hết. Sau khi đã phó mạc Bết-sai-đa cho sự phán xét (Mat Mt 11:21-24) Ngài sẽ không còn chữa bịnh hay để cho các môn đệ Ngài làm chứng đạo tại đó nữa (c.26). Ngài xem Bết-sai-đa là một cộng đồng đã bị bỏ đi, nhưng Ngài vẫn còn muốn tỏ lòng thương xót với những cá nhân. Hãy đối chiếu với KhKh 3:20. Đấng Christ đang đứng ngoài cửa của Hội Thánh, nhưng “Nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì v.v...”



Câu 74.Lời Chúa chúng ta đã nói với Cai-phe.
Trong câu Chúa Giê-xu nói với Cai-phe chép ở Mat Mt 26:64 Ngài muốn nói về thời kỳ nào?

Nhằm trả lời câu hỏi của Cai-phe: “Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Con Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng?” Chúa chúng ta đã nói với ông ta: “Thật như lời chính ngươi đã nói), vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống”.
Đây là câu Chúa chúng ta trả lời với Cai-phe một cách chính thức, công khai, chớ không phải chỉ với tính cách cá nhân, riêng tây mà thôi. Cai-phe là đại diện của toàn dân Y-sơ-ra-ên, cho nên bức thông điệp ấy là nhằm vào toàn dân Y-sơ-ra-ên chớ không phải chỉ cho riêng một mình ông ta. Việc ấy sẽ ứng nghiệm đúng kỳ khi Chúa tái lâm.




Câu 75.Hai lần xức dầu.
Chúa chúng ta đã được ai xức dầu, và xức dầu mấy lần? Tôi muốn nói đến lần (hay bao nhiêu lần?) xức dầu, theo Mat Mt 26:7; Mac Mc 14:3; LuLc 7:37 GiGa 1:12; 12:1-8.


Có hai lần xức dầu, cách nhau khoảng hai năm một lần tại xứ Giu-đê và một lần tại Ga-li-lê. Cả hai lần này thì chẳng có điểm nào giống nhau, ngoại trừ cả hai lần đều xảy ra trong hai nhà của hai người cùng có tên là Si-môn. Si-môn vốn là một cái tên hết sức phổ thông, cho nên chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên khi hai người khác nhau lại được kết hợp lại với nhau trong những lần ký thuật này. Chỉ một mình Lu-ca đã cho chúng ta biết về lần xức dầu thứ nhất trong LuLc 7:36-50. Biến cố này xảy ra rất sớm trong thời gian Chúa Giê-xu thi hành chức vụ, lúc Ngài ở tại xứ Ga-li-lê. Người đàn bà lấy dầu xức chơn Ngài rồi lấy tóc mình mà lau, được mô tả là “một người đờn bà xấu nết ở thành đó” (c.37). Câu này chắc chắn ngụ ý rằng bà ta là một phụ nữ trắc nết. Không hiểu vì sự kết hợp lạ lùng và không thể giải nghĩa được nào, người ta lại cho rằng người phụ nữ ấy chính là Ma-ri Ma-đơ-len. Dĩ nhiên là do sự việc đó, “Ma-đơ-len” đã trở thành một cái tên ám chỉ một phụ nữ trắc nết. Nguyên cái tên ấy không hề có nghĩa như vậy. Sở dĩ người ta gọi bà là Ma-đơ-len, vì quê quán bà là Ma-đa-la, và trong Kinh Thánh, không hề có chỗ nào bảo rằng bà là một “tội nhơn” theo nghĩa là “trắc nết” cả. Ma-ri Ma-đơ-len vốn bị quỉ ám và đã được Chúa Giê-xu đuổi quỉ ra để giải thoát cho. Nhưng trong Kinh Thánh cũng không có câu nào ám chỉ bà là người đã xức dầu cho Chúa trong LuLc 7:1-50.
Lần xức dầu thứ hai xảy ra hai năm sau đó, lúc Chúa chúng ta sắp bị phản nộp vào tay những kẻ có tội và chịu đóng đinh vào thập tự giá. Lần xức dầu này được mô tả trong Mat Mt 26:6-13; Mac Mc 14:3-9; GiGa 12:1-8. Việc xảy ra “trong nhà Si-môn, là người phung” (Mat Mt 26:6; Mac Mc 14:3). Nhà này ở trong làng Bê-tha-ni, theo cả ba trước giả các sách Tin Lành. Giăng cho chúng ta biết rằng lần xức dầu này xảy ra trong một bữa tiệc tối nhằm thết đãi Chúa Giê-xu; và trong bữa tiệc này có “Ma-thê hầu bàn” còn anh nàng là “La-xa-rơ, là một người trong đám ngồi đồng bàn với Ngài”. Tuy nhiên, ông không hề nói với chúng ta rằng việc ấy xảy ra trong nhà của Ma-thê và La-xa-rơ. Có nhiều phỏng đoán về lai lịch của “Si-môn là người phung” này, nhưng phần ký thuật không giúp được gì cho chúng ta nhận diện được ông ta. Sách không vạch rõ ông “Si-môn là người phung” này đã có mặt trong bàn tiệc nên chúng ta có thể suy diễn mà không sợ sai lầm rằng nếu ông Si-môn ấy có mặt, thì ông ta không còn là người phung nữa. Không hế có ai bị bịnh phung mà còn mang chứng bịnh ấy đến trước hiện diện của Chúa chúng ta. Người phụ nữ xức dầu cho Chúa trong bữa tiệc này là Ma-ri người Bê-tha-ni. em gái của Ma-thê và La-xa-rơ.
Hai sứ đồ Ma-thi-ơ và Mác cho chúng ta biết rằng Ma-ri đã xức dầu trên đầu Chúa chúng ta, còn Giăng cho biết thêm là bà cũng xức dầu cho chân của Chúa và lấy tóc mình mà lau nữa. Tuy nhiên, chẳng có chi mâu thuẫn nhau ở đây. Cả đầu và chân Ngài đều được xức dầu. Tiến sĩ Scofield nói: “Cách xức dầu thông thường để tôn vinh và tỏ ra hiếu khách, là dưới chân (LuLc 7:38) và trên đầu (LuLc 7:46). Nhưng Ma-ri ở Bê-tha-ni là người duy nhất trong số các môn đệ của Chúa chúng ta đã thấy hiểu câu nói nhắc đi nhắc lại ba lần của Ngài rằng Ngài sắp chịu chết rồi sống lại, nên đã khoác cho việc xức dầu một ý nghĩa sâu sắc hơn về việc chuẩn bị xác Ngài để chôn cất. Ma-ri ở Bê-tha-ni không thuộc số phụ nữ đã đến mộ Chúa với ý định ướp xác Chúa Giê-xu bằng thuốc thơm”.
Nên nhớ là Chúa chúng ta đã hết sức đẹp lòng về hành động tận hiến của Ma-ri xuất phát từ đức tin đơn sơ nhằm làm chứng cho Ngài về cái chết và sự sống lại sắp xảy đến cho Ngài, nên Ngài đã phán với các môn đệ rằng: “Trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin Lành này được giảng ra, việc người đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người”.




Câu 76.Được treo lên khỏi đất.
Xin giải thích GiGa 12:32. Phải chăng việc “được treo lên khỏi đất” ở đây ám chỉ việc đề cao Chúa Giê-xu bằng cách truyền giảng đạo Ngài?

Không phải như vậy. Cả đến nhà truyền đạo trung tín nhất cũng không thể nào “kéo mọi người” đến cùng Chúa Giê-xu được dầu số người đó thuộc vào một cộng đồng rất ít người. Ý nghĩa của khúc sách này vốn khác xa. Xin nghiên cứu cả bản văn. Từ câu thứ hai mươi trở đi. Phi-líp và Anh-rê đến với Chúa Giê-xu cho biết có một số người ngoại bang muốn diện kiến Ngài. Hãy nhận xét thật kỹ phản ứng lạ lùng của Chúa Giê-xu đối với lời yêu cầu đó. Chưa bao giờ Ngài tỏ ra bị xúc động mạnh như lúc ấy. Dường như trong việc những người ngoại bang đến thăm viếng Ngài cách bất thường này, vốn có một ý nghĩa khác lạ không hiện ra ngay trên bề mặt. Trong câu 24, Chúa chúng ta tự ví mình như hột lúa mì. Những người ngoại bang này lại đang muốn gặp mặt Ngài. Đây là một khúc quanh quan trọng trong chức vụ của Ngài. Dường như Ngài không muốn tự tỏ mình ra cho họ, mà lý do là vì chức vụ của Ngài lúc ấy không phải là dành cho họ, ngoại trừ việc Ngài sẽ chịu chết thay cho họ. Như hột lúa nếu không rơi xuống đất và chết đi, chịu cảnh đơn độc, thì không thể nào kết quả được, cho nên Ngài cũng phải chịu chết, phải phó mạng sống mình. Ngài phải chịu chết vì thế gian; loài người phải được sanh lại, mà việc ấy không thể nào có được nếu Ngài không chịu chết đi. Con Đức Chúa Trời phải được treo lên (đối chiếu với GiGa 3:14). Ở đây, Chúa Giê-xu tái xác nhận việc Ngài quyết định hiến dâng mạng sống Ngài để cứu rỗi loài người. Đấng Christ trong xác thịt đã không làm gì có ích lợi cho người ngoại bang cả; phải là Đấng Christ bị đóng đinh vào thập tự giá và sống lại (đối chiếu IICo 2Cr 5:16 với ICo1Cr 1:23, 24). Trong GiGa 12:25, 26. Chúa Giê-xu kêu gọi các môn đệ Ngài hãy sống quên mình đi, và chỉ cho họ thấy rằng đó chính là nẻo đường dẫn đến vinh quang thật sự. Hãy chú ý là trong câu 27 Chúa chúng ta đã tỏ ra đang bị xúc động mạnh như thế nào. Ngài phán: “Hiện nay tâm thần ta bối rối, ta sẽ nói gì? Chính Chúa đang tự hỏi Ngài phải nói gì. Ngài sẽ nói gì đây? Ngài sẽ nói: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” chăng? Không, vì “vì sự đó mà con đến giờ này” vậy thì Ngài phải nói: “Cha ơi, xin làm sáng danh Cha”. Đây là lời tái xác nhận nghiêm trọng rằng Ngài sẵn sàng vâng theo ý chỉ Cha Ngài. Ngài sẽ uống cạn đến phần cáu cặn của chiếc chén mà Cha Ngài trao cho. Ngài sẽ tiến thẳng vào cõi chết dầu là phải chết trên thập tự giá. Mà làm như thế thì Ngài không nhằm tự cứu lấy mình, nhưng vì muốn cứu rỗi người khác. Làm như thế, Ngài sẽ “đưa được nhiều con cái vào cõi hiển vinh”.
Quyết định của Chúa chúng ta đã được chào đón bằng câu trả lời của Đức Chúa Cha mà cả đoàn dân có mặt đều nghe thấy, bằng tiếng phán từ trời dội xuống: “Ta đã làm sáng danh rồi, ta còn làm cho sáng danh nữa”. Đây là Đức Chúa Cha đã chấp nhận sự dâng hiến của Con Ngài. Đây là lần thứ ba và là lần cuối cùng trong thời gian Chúa chúng ta thi hành chức vụ trên đất, các cửa thiên đàng đã mở ra và Đức Chúa Cha đã phán xuống để tỏ ra tán thưởng Đức Chúa Con (Mat Mt 3:17; 17:5).
Muốn lãnh hội ý nghĩa đích thực của khúc sách này, chúng ta phải đưa Đức Thánh Linh vào trong bầu không khí đó. Hãy lắng nghe giọng nói đầy phấn khởi của Chúa chúng ta khi Ngài phán: “Hiện bây giờ, có sự phán xét (Hi-văn crisis, có thể dịch là cơn khủng hoảng, khúc quanh quyết định) thế gian này, và hiện nay vua Chúa của thế gian này (tức Sa-tan) phải bị xua đuổi” (c.31).
Và Sa-tan đã bị xua đuổi như thế nào? Xin đọc câu trả lời trong câu 32: “Còn ta, khi đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” Câu 33 giải nghĩa câu 32: “Ngài phán vậy để chỉ mình phải chết cách nào. Vậy thì, bằng cách chết trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã kéo mọi người đến với Ngài. Khi huyết Ngài đổ ra trên núi Gô-gô-tha, Ngài đã truất phế A-đam thứ nhất khỏi địa vị đứng đầu của toàn thể nhân loại, và kéo mọi người đến với chính Ngài. “Nếu có một người chết vì mọi người, thì mọi người đều chết” (IICo 2Cr 5:14).
Chính vì thế mà Chúa chúng ta trở thành “Cứu Chúa cả thế gian”. “Cứu Chúa của mọi người” (GiGa 4:42) Ngài là Cứu Chúa. “đặc biệt là cho những kẻ tin”, nhưng theo đúng ý nghĩa đích thực nhất của nó, Ngài cũng là Cứu Chúa cho toàn thể nhân loại (ITi1Tm ITi4:10). Nhân loại đã không được cứu hoàn toàn, nhưng sở dĩ như vậy, thì không phải vì không có Cứu Chúa “Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (GiGa 1:29) đã nếm trải “sự chết vì mọi người” (HeDt 2:9). Nhân loại đã không được cứu trọn vẹn, nhưng Ngài đã chịu chết là “hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (GiGa 3:17). Chúa Giê-xu đã thực hiện sự cứu chuộc làm của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nũa” (IGi1Ga 2:2).




Câu 77.Ê-lô-i, Ê-lô-i, Lam-ma-sa-bách-ta-ni.
Câu “Ê-lô-i, Ê-lô-i, Lam-ma-sa-bách-ta-ni mà Chúa chúng ta thốt lên trên thập tự giá là tiếng gì?

Có người bảo đó là một ngôn ngữ chẳng ai biết, nhưng đã được giải thích do sự trợ giúp của Đức Thánh Linh.
Đây là mấy chữ được phiên âm (không phải dịch nghĩa) theo tiếng Hi Lạp, mà bản Hi văn cũng phiên âm theo tiếng A-ram, là ngôn ngữ phổ thông thời Chúa ở thế gian.




Câu 78.Anh em của Chúa chúng ta.
Xin giải nghĩa GiGa 7:5 “Bởi chưng chính các anh em Ngài không tin Ngài”.

Câu này ám chỉ các em ruột của Chúa chúng ta theo phần xác, tức là các con trai khác của Mẹ Ngài là bà Ma-ri. Có người không nhận là bà Ma-ri còn có con cái khác, nhưng Kinh Thánh chống lại ý kiến đó. Mat Mt 12:46 có đề cập “mẹ và anh em Ngài”; trong Mac Mc 13:55 có bốn người em trai Ngài đã được nêu tên, đó là Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn và Giu-đe; và trong câu 56, các em gái Ngài cũng đã được nêu tên. Có một khúc sách song hành trong 6:3, tên các em trai Ngài lại được kể ra, và các em gái Ngài cũng được đề cập. Trong GiGa 2:12 chúng ta đọc thấy “Ngài với mẹ, anh em, và các môn đồ đến xuống thành Ca-bê-na-um”. Cần chú ý là trong Cong Cv 1:14, dường như các em trai của Chúa đều đã tin Ngài câu ấy chép “Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện, với các người đàn bà, và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Giê-xu cùng anh em Ngài”. Trong ICo1Cr 9:5 Phao-lô đề cập các anh em Chúa trong mối liên hệ với ông và Phi-e-rơ. Còn trong GaGl 1:18, 19 Phao-lô nói đến lần đầu tiên ông đến Giê-ru-sa-lem sau khi ăn năn trở lại đạo, và khi đến đó, cũng “làm quen với Sê-pha và ở với người mười lăm ngày; nhưng tôi không thấy một sứ đồ nào khác, trừ ra Gia-cơ là em của Chúa”.
Quả thật từ ngữ Hi văn chỉ “anh em (adelphoi) cũng chỉ luôn “anh em họ” hay “bà con” xa gần nữa, cho nên vì lý do đó, những người phản đối ý kiến cho rằng bà Ma-ri có nhiều con cái khác ngoài Chúa Giê-xu ra, nhấn mạnh rằng hễ nơi nào trong sách đề cập “anh em Chúa Giê-xu theo phần xác” thì đều ám chỉ các anh em họ hay bà con theo nghĩa khác hơn là bảo rằng đó là con cái của bà Ma-ri. Mọi lý luận như thế có thể là đúng nếu trong Thi 69 Đức Thánh Linh của chân lý không đặt để một câu nhằm giải quyết toàn thể vấn đề ấy. Đây là một trong những Thi Thiên đã được thừa nhận là nói về Đấng Mê-si, và Chúa chúng ta luôn luôn là chủ từ. Trong Thi Thiên này, chúng ta nghe Ngài hát: “Chúng nó ban mật đắng làm vật thực tôi; và cho tôi uống giấm trong khi khát” (c.21 đối chiếu với Mat Mt 27:34 và GiGa 19:28-30). Ngay trong những lời xưng tội tìm thấy trong Thi Thiên ấy, chúng ta cũng phải nhận là chính Chúa chúng ta đã thốt ra để xưng nhận tội lỗi chúng ta, xem như đó là tội lỗi của Ngài. Điều đó chứng minh rằng Ngài hoàn toàn tự đồng hoá với chúng ta khi chịu cho kẻ gian ác treo Ngài lên thập tự giá thay cho chúng ta. Bây giờ, hãy xét đến mấy câu 7-9.
“Ấy vì Chúa mà tôi đã mang sự nhuốc nhơ, và bị sự hổ thẹn bao phủ mặt tôi. Tôi đã trở nên một kẻ lạ cho anh em tôi. Một người ngoại bang cho các con trai mẹ tôi. Vì sự sốt sắng về đền Chúa tiêu nuốt tôi (xem 2:17). Sự sỉ nhục của kẻ sỉ nhục Chúa đã đổ trên tôi”.
Với những ai sẵn lòng đầu phục uy quyền của Lời Đức Chúa Trời, thì mấy câu này đã đủ để thuyết phục họ. Sau khi sanh ra Chúa Giê-xu, bà Ma-ri còn có nhiều con khác nữa, và “anh em” Chúa mà Tân Ước ám chỉ phải được chúng ta xem là con cái của mẹ Ngài.



Câu 79.Đặt mồ Ngài với kẻ ác.
Câu “Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác” (EsIs 53:9) có nghĩa gì? Phần mộ của Giô-sép người A-ri-ma-thê có nằm trong khu vực nghĩa địa mọi người Do Thái dành cho các tội phạm hay không?

Dĩ nhiên là không. Phần mộ đó là “một cái huyệt mới mà người đã khiến đục cho (riêng) mình trong hòn đá” (Mat Mt 27:60). Giăng cho chúng ta biết: “Tại nơi Ngài bị đóng đinh, có một cái vườn, trong vườn đó có một cái huyệt mới, chưa chôn ai. Ấy là nơi hai người chôn Đức Chúa Giê-xu” (GiGa 19:41, 42).
A.C. Gaebelein dịch EsIs 53:9 như sau: “Người ta định phần mộ người với kẻ chết, nhưng người được (nằm chung) với kẻ giàu khi chết, vì người không hề bạo động, và trong miệng không có sợ gian dối”.




Câu 80.Các lằn roi Ngài.
EsIs 53:5 “Bởi lằn roi người, chúng ta được lành bệnh” có nghĩa gì?

Câu đó có nghĩa là Đấng Christ đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta, và bởi đức tin, người tin Ngài nhờ huyết Ngài mà được cứu. IPhi 1Pr 2:23, 24 có gói ghém phần ý nghĩa thần học cho vấn đề này. “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhơn những làn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bệnh”.
Ngài là Đấng duy nhất trên thiên đàng đã bị đòn vọt làm cho bị thương và những vết thương ấy vốn không như thương tích của những chiến sĩ được thoát chết trở về, nhưng nói lên sự vâng phục “cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” của Ngài.




Câu 81.“Đừng rờ đến ta”.
Tại sao trong GiGa 20:7 Chúa Giê-xu bảo với Ma-ri “Chớ rờ đến ta”, trong khi Ngài lại mời gọi Thô-ma hãy sờ vào Ngài?

Giữa khoảng Chúa hiện ra với Ma-ri và mấy ngày sau đó, khi Ngài hiện ra với các môn đệ khác của Ngài, thì Chúa chúng ta đã lên trời làm ứng nghiệm ý nghĩa hình bóng của lễ dâng bó lúa đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va trong LeLv 23:9-14. Là trái đầu mùa sự sống lại (ICo1Cr 15:23). Ngài phải trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va để được tếp nhận vì cớ chúng ta (LeLv 23:11). Việc đó phải xảy ra trước khi Ngài xuất hiện trước mắt bất cứ ai khác. Một ý nghĩa hình bóng nữa cũng đã được ứng nghiệm là Ngày Đại Lễ Chuộc tội. Chúa chúng ta đã dâng xong của lễ hi sinh, và lúc Ngài gặp Ma-ri là Ngài đang ở trên đường đi về trời để ra mắt trước hiện diện Đức Chúa Trời, dâng huyết Ngài lên vì cớ chúng ta (HeDt 9:11, 12). Lẽ tất nhiên, mọi việc đó phải xảy ra ngay sau khi Ngài sống lại để đáp ứng trọn vẹn điều đòi hỏi của ý nghĩa hình bóng trong Kinh điển.


Câu 82.“Cái đinh đóng nơi vững chãi”.
Xin giải thích EsIs 22:25

Muốn hiểu câu này, phải đọc cả khúc sách đó bắt đầu từ câu 15 khi Đức Chúa Trời tuyên bố sự phán xét đối với Sép-na, sẽ bị cách chức và được thay thế bằng Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, người được Đức Chúa Trời đề cập trong câu 21 rằng: “Ta sẽ lấy áo ngươi mạc cho nó, lấy đai ngươi giúp sức nó, lấy chánh quyền ngươi trao trong tay nó”. Những lời nói trong hai câu 22-24 được áp dụng hai lần, vì rõ ràng là đề cập đến Đấng Christ về sau này (đối chiếu với KhKh 3:7). Nhưng đến câu 25 thì Sép-na lại xuất hiện như kẻ tự cho là mình đang được một địa vị vững chắc “như cây đinh đóng nơi vững chãi”. Mặc dầu ông ta tự cho là mình được an toàn như vậy, ông ta đã bị “đập và rớt xuống, và gánh nặng treo trên nó sẽ bị cắt đứt, vì Đức Giê-hô-va đã phán vậy”.



Câu 83.Thấy mặt của Đức Chúa Trời.
Xin ông vạch rõ các khúc sách say đây có thể được phối hợp với nhau như thế nào:
IGi1Ga 4:12 và GiGa 1:18 chép: “Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời”.
XuXh 24:10 chép “Họ ngó thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; dưới chân Ngài có một vật giống bích ngọc trong ngần, khác nào như sắc trời thanh quang”
24:11 “Họ ngó thấy Đức Chúa Trời thì ăn và uống”.

Lời đáp cho câu hỏi về IGi1Ga 4:12 và GiGa 1:18 được tìm thấy trong mấy chữ còn lại của 1:18 “chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” theo nguyên văn có nghĩa là “giới thiệu” Ngài với chúng ta. Việc nhìn thấy Đức Chúa Trời hay việc Đức Chúa Trời hiện ra trong Cựu Ước vốn là sự hiện ra của Chúa Giê-xu Christ trước khi Ngài nhập thể. Thí dụ hãy đối chiếu EsIs 6:1-10 với GiGa 12:37-41.



Câu 84.Đấng Christ theo xác thịt.
“Theo xác thịt mà nhận biết Đấng Christ” trong IICo 2Cr 5:16 là thế nào?

Đó là nhận biết Ngài như một người “trong xác thịt” hay như một người chưa được tái sanh hiểu biết Ngài. Một sự nhận biết như vậy được Tiến sĩ Scofield mô tả là “một niềm tin trí thức về Đấng Christ trong lịch sử, khác hẳn với tin nhận Ngài”. “Tin nhận Ngài có nghĩa là tin cậy, chịu lệ thuộc. Niềm tin trí thức không đưa đến chỗ được cứu rỗi như đức tin tin cậy của những người thật sự hết lòng hết trí khôn tin cậy Ngài”.





Câu 85.Chúa Giê Xu Christ là ai?

Trả lời: Chúa Giê Xu Christ là ai? Không giống như câu hỏi: Đức Chúa Trời có hiện hữu? Rất ít người đặt câu hỏi này cho dù Chúa Giê Xu Christ đã hiện hữu. Tính cách phổ quát chấp nhận Chúa Giê Xu là một con người thật đã đi vào đất nước Y-sơ-ra-ên 2000 năm trước. Cuộc tranh luận bắt đầu khi chủ đề về nhân dạng đầy đủ của Chúa Giê Xu được thảo luận. Hầu hết những tôn giáo chính dạy Chúa Giê Xu là một nhà tiên tri hoặc là một giáo sư tốt hay là nhân vật đáng tôn kính. Vấn đề là Kinh Thánh chứng minh Chúa Giê Xu nhiều hơn là một nhà tiên tri hoặc một giáo sư tốt hay là nhân vật đáng tôn kính.

C.S.Lewis trong tác phẩm “Chỉ là Cơ đốc giáo” của ông đã viết như sau: Tại đây tôi đang cố gắng ngăn chận bất cứ ai khỏi nói những điều thật điên cuồng mà con người thường hay nói về Chúa Giê Xu Christ: “Tôi tin Chúa Giê Xu Christ như là vị giáo sư đạo đức vĩ đại, nhưng tôi không tin Ngài là Đức Chúa Trời.” Đó là điều chúng ta phải nói không. Một người mà chỉ đơn thuần là một người nói vài điều ngắn ngủi như Chúa Giê Xu đã nói thì không phải là một giáo sư đạo đức vĩ đại. Người ấy hoặc là một người điên hoặc là ma quỷ. Bạn phải tự lựa chọn Chúa Giê Xu là con Đức Chúa Trời hoặc là một người điên hoặc là người tồi tệ nhất. Bạn có thể bảo Ngài đừng nói những lời điên khùng, bạn có thể khạc nhổ vào Ngài, và giết Ngài như một quỷ vương hoặc bạn quỳ xuống chân Ngài gọi Ngài là Chúa và Đức Chúa Trời. Nhưng hãy đừng để chúng ta tôn cao Ngài như là một giáo sư con người vĩ đại bằng những lời xằng bậy của kẻ bề trên. Ngài không để lại cho chúng ta sự lựa chọn đó. Ngài không có ý định như vậy.”

Vậy thì Chúa Giê Xu đã tuyên bố Ngài là ai? Kinh Thánh nói Ngài là ai? Trước tiên hãy xem những lời Chúa Giê Xu nói trong Giăng 10:30 “ Ta với Cha là một”. Đầu tiên nhìn lướt qua, lời tuyên bố này dường như Chúa Giê Xu không phải là Đức Chúa Trời. Tuy nhiên hãy xem phản ứng của người Do Thái về câu nói của Ngài. “Người Giu Đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: Ngươi là người mà tự xưng là Đức Chúa Trời.” (Giăng 10:33) Người Do Thái hiểu lầm về câu nói của Chúa Giê Xu nhưng trong những câu Kinh Thánh tiếp theo Ngài không bao giờ đính chính: “Ta không phải là Đức Chúa Trời.” Điều đó cho thấy Chúa Giê Xu nói Ngài thực là Đức Chúa Trời bởi câu “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30) Giăng 8:58 là một thí dụ khác, Chúa Giê Xu đã công bố: “Đức Chúa Giê Xu đáp rằng, quả thật, ta nói cùng các ngươi, trước khi có Áp-ra-ham đã có Ta.” Một lần nữa người Do Thái phản ứng bằng cách nhặt đá lên toan ném vào Chúa Giê Xu (Giăng 8:59) Chúa Giê Xu đã thông báo về lai lịch của Ngài khi nói: “TA LÀ” áp dụng trực tiếp vào danh xưng của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước (Xuất Ê-Díp-Tô ký 3:14) Tại sao một lần nữa người Do Thái muốn ném đá Chúa Giê Xu nếu Ngài không nói điều gì mà họ coi như là sự nhạo báng, danh xưng Ngài công bố là Đức Chúa Trời?

Giăng 1:1 nói “Ngôi lời là Đức Chúa Trời” Giăng 1:14 nói “Ngôi lời đã trở nên xác thịt” điều này rõ ràng cho thấy Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời trong xác thịt. Thô Ma một môn đồ nói với Chúa: “Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi.” (Giăng 20:28) Chúa Giê Xu không sửa lại lời ông nói. Sứ đồ Phao Lô đã diễn tả về Ngài như sau: “…Đức Chúa Trời cao cả của chúng tôi và Cứu Chúa Giê Xu Christ (Tít 2:13) Sứ đồ Phi-e-rơ cũng nói như thế: “Đức Chúa Trời của chúng tôi và Cứu Chúa Giê Xu Christ.” (II Phi-e-rơ 1:1) Đức Chúa Trời đã làm chứng đầy đủ về lai lịch của Chúa Giê Xu như sau: Về Con, Ngài nói “ Ô! Đức Chúa Trời, vương quốc Ngài còn mãi và sự công bình của Ngài ngự trị trong vương quốc”. Những lời tiên tri trong Cựu Ước công bố về thần tánh Ngài như sau: “Vì sẽ có một con trẻ sinh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta, quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài, Ngài sẽ được xưng là Đấng mưu luận, là Đức Chúa Trời quyền năng, Cha đời đời, Chúa bình an.”

Vì thế, C.S.Lewis đã tranh luận, tin Chúa Giê Xu là một giáo sư tốt đó không phải là sự lựa chọn. Chúa Giê Xu được xưng là Đức Chúa Trời rõ ràng không thể chối cãi. Nếu Ngài không phải là Đức Chúa Trời thì Ngài là kẻ nói dối do đó không phải là tiên tri, giáo sư tốt, hay người tin kính tốt. Thử giải thích xa hơn những lời của Chúa Giê Xu, những học giả hiện đại công bố “ Giê Xu là nhân vật lịch sử thật” đã không nói nhiều điều mà Kinh Thánh làm chứng về Ngài. Chúng ta là ai mà tranh luận với lời Đức Chúa Trời liên quan đến những gì Chúa Giê Xu đã làm hoặc làm mà không nói. Làm thế nào có thể một “học giả” hai ngàn năm đã rút ra từ Chúa Giê Xu một cái nhìn thấu suốt bên trong những gì Ngài làm hoặc làm mà không nói hơn là những người đã sống với Ngài, hầu việc Ngài, và được dạy dỗ bởi chính Chúa Giê Xu. (Giăng 14:26)?

Tại sao việc hỏi về con người thật của Chúa Giê Xu lại rất quan trọng? Tại sao lại trở thành vấn đề cho dù Ngài có phải là Đức Chúa Trời hay không? Lý do quan trọng nhất mà Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời vì nếu Ngài không phải là Đức Chúa Trời, sự chết của Ngài không có linh nghiệm để trả thay tội lỗi của toàn thể loài người. (I Giăng 2:2) Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể đền tội thay cho món nợ tội lỗi không thể đếm được (Rô-ma 5:8; II Cô-rinh-tô 5:21). Chúa Giê Xu phải là Đức Chúa Trời để mà Ngài có thể trả thay món nợ của chúng ta. Chúa Giê Xu phải là người để Ngài có thể chết. Sự cứu rỗi chỉ có thể thực hiện được qua đức tin vào Chúa Giê Xu Christ. Thần tánh của Chúa Giê Xu để giải thích tại sao Ngài là con đường cứu rỗi duy nhất. Thần tánh của Chúa Giê Xu để giải thích lời tuyên bố của Ngài: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống, chẳng bởi Ta không một ai được đến cùng Cha.” (Giăng 14:6).


© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 86.Có phải Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời?

Trả lời: Không có một lời ghi chép chính xác nào trong Kinh Thánh Chúa Giê Xu nói “Ta là Đức Chúa Trời”. Tuy nhiên điều này không có nghĩa Chúa Giê Xu không tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời. Hãy xem một thí dụ về lời Chúa Giê Xu trong Giăng 10:30 “Ta với Cha là một”. Thoạt đầu tiên dường như Chúa Giê Xu không xưng Ngài là Đức Chúa Trời. Tuy nhiên nhìn theo phản ứng của người Do Thái theo cách nói của họ: “Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì tội lộng ngôn: Ngươi là người mà tự xưng là Đức Chúa Trời” (Giăng 10:33) Những người Do Thái không hiểu câu nói Chúa Giê Xu tự xưng là Đức Chúa Trời, những câu tiếp theo Chúa Giê Xu không bao giờ đính chính với người Do Thái bằng cách nói: “Ta không tuyên bố Ta là Đức Chúa Trời” điều này cho thấy Chúa Giê Xu thật đã nói Ngài là Đức Chúa Trời bởi lời tuyên bố “Ta với Cha là một”. Giăng 10:30. Một thí dụ khác trong Giăng 8:58 “Đức Chúa Giê Xu đáp rằng: Quả thật, quả thật Ta nói cùng các ngươi, trước khi chưa có Áp-ra-ham đã có Ta.” Một lần nữa phản ứng của người Do Thái là đòi ném đá Chúa Giê Xu (Giăng 8:59) Tại sao người Do Thái muốn ném đá Chúa Giê Xu nếu Ngài không nói những điều mà họ cho là phỉ báng, cụ thể là lời tuyên bố Đức Chúa Trời?

Giăng 1:1 nói rằng “Ngôi lời là Đức Chúa Trời” Giăng 1:14 nói “Ngôi lời đã trở nên xác thịt.” Điều này chỉ rõ Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời trong hình người. Công vụ 20:28 nói với chúng ta “…chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời mà Ngài mua bằng huyết.” Ai đã mua Hội Thánh bằng chính huyết mình? Chúa Giê Xu Christ. Công vụ 20:28 tuyên bố Đức Chúa Trời mua Hội Thánh bằng chính huyết mình. Do đó Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời.

Thô Ma, một môn đồ tuyên bố liên quan đến Chúa Giê Xu: “Lạy Chúa và Đức Chúa Trời tôi” (Giăng 20:28) Chúa Giê Xu không sửa lại ông. Tít 2:13 khuyến khích chúng ta trông đợi sự tái lâm của Đức Chúa Trời và Cứu Chúa chúng ta – Chúa Giê Xu Christ. (Cũng xem II Phi-e-rơ 1:1) Hê-bơ-rơ 1:8 Đức Chúa Cha tuyên bố về Đức Chúa Giê Xu “Nhưng nói về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia. Quyền bính của nước Chúa là quyền bính ngay thẳng.”

Trong sách Khải Thị một thiên sứ đã chỉ dẫn cho sứ đồ Giăng sự thờ phượng Đức Chúa Trời duy nhất (Khải thị 19:10) Một vài lần trong Kinh Thánh Chúa Giê Xu đã chấp nhận sự thờ phượng (Ma-thi-ơ 2:11; 14:33; 28:9,17; Lu-ca 24:52; Giăng 9:38) Ngài không bao giờ quở trách người thờ phượng Ngài. Nếu Chúa Giê Xu không phải là Đức Chúa Trời Ngài đã bảo với mọi người đừng thờ phượng Ngài như thiên sứ trong sách Khải thị đã làm. Có nhiều câu và những đoạn Kinh Thánh khác thuyết phục về thần tánh của Chúa Giê Xu.

Lý do quan trọng nhất về Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời là nếu Ngài không phải là Đức Chúa Trời sự chết của Ngài không đủ để trả sự hình phạt tội lỗi của toàn thể thế giới. (I Giăng 2:2) Chỉ Đức Chúa Trời mới có thể trả được tội hằng hà sa số. Chỉ có Đức Chúa Trời mới cất đi tội lỗi của thế gian. (II Cô-rinh-tô 5:21) Sự chết và sự sống lại – chứng minh về chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.


© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 87.Có phải Kinh Thánh nói về thần tánh của Đấng Christ không?

Trả lời: Để thêm vào những lời loan báo cụ thể của Chúa Giê Xu về chính mình Ngài, các môn đồ của Ngài cũng thừa nhận về thần tánh của Đấng Christ. Họ đã công bố rằng Chúa Giê Xu có quyền tha tội – một vài điều chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền làm vì cớ Đức Chúa Trời là Đấng không bị tội lỗi xúc phạm. (Công vụ các sứ đồ 5:31; Cô-lô-se 3:13; xem thêm Thi Thiên 130:4; Giê-rê-mi 31:34) Trong sự tiếp xúc gần với lời công bố sau cùng này Chúa Giê Xu cũng nói Ngài là Đấng sẽ “Phán xét sự sống và sự chết” (II Ti-mô-thê 4:1) Thô Ma khóc về Chúa Giê Xu: “ Lạy Chúa là Đức Chúa Trời tôi” (Giăng 20:28) Phao Lô gọi Chúa Giê Xu: “Ngài là Đức Chúa Trời và Cứu Chúa cao cả” (Tít 2:13) và chỉ ra rằng trước khi Chúa Giê Xu trở thành nhục thể Ngài đã hiện diện trong hình ảnh Đức Chúa Trời (Phi-líp 2:5-8) Tác giả của thơ Hê-bơ-rơ đã nói về Chúa Giê Xu: “Nhưng nói về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia,” (Hê-bơ-rơ 1:8) Giăng tuyên bố: “Ban đầu có ngôi lời, ngôi lời ở cùng Đức Chúa Trời, và ngôi lời (Chúa Giê Xu) là Đức Chúa Trời.” (Giăng 1:1) Những thí dụ trong Kinh Thánh dạy về thần tánh của Đấng Christ có thể còn rất nhiều. (Xem trong Khải Huyền 1:17; 2:8; 22:13; I Cô-rinh-tô 10:4; I Phi-e-rơ 2:6–8; Xem thêm Thi Thiên 18:2; 95:1; I Phi-e-rơ 5:4; Hê-bơ-rơ 13:20) ngay cả trong những câu này cho thấy thần tánh của Chúa Giê Xu qua sự xưng nhận của các môn đồ Ngài.

Chúa Giê Xu cũng được ban cho danh hiệu độc nhất là Đức Giê Hô Va (Danh xưng quen thuộc của Đức Chúa Trời) trong Cựu Ước. Danh xưng “Đấng Cứu Thế” trong Cựu Ước (Thi Thiên 130:7, Ô-sê 13:14) được dùng cho Chúa Giê Xu trong Tân Ước (Tít 2:13; Khải Huyền 5:9) Chúa Giê Xu được gọi là Em-ma-nu-ên (Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta trong Ma-thi-ơ 1) Trong Xa-cha-ri 12:10 Đức Giê Hô Va nói rằng: “Chúng nó sẽ nhìn xem Ta là Đấng chúng nó đã đâm.” Nhưng trong Tân Ước áp dụng câu này trong việc đóng đinh Chúa Giê Xu trên cây thập tự (Giăng 19:37; Khải Huyền 1:7). Nếu chính Đức Giê Hô Va đã nói: Chúng nó sẽ nhìn xem Ta là Đấng chúng nó đã đâm và Chúa Giê Xu cũng như vậy thì Chúa Giê Xu là Đức Giê Hô Va. Phao Lô trích từ Ê-Sai 45:22–23 áp dụng vào Chúa Giê Xu trong Phi Líp 2:10-11. Hơn nữa danh Giê Xu được đặt bên cạnh lời cầu nguyện trong danh Đức Giê Hô Va: “ Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Giê Xu Christ, là Chúa chúng ta.” (Ga-la-ti 1:3; Ê-phê-sô 1:2) Nếu Đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời điều này là một sự phạm thượng. Trong mạng lệnh làm báp têm của Chúa Giê Xu, danh xưng Chúa Giê Xu đi cùng với danh xưng Đức Giê Hô Va: “Nhân danh (số ít) Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh.” (Ma-thi-ơ 28:19; cũng xem II Cô-rinh-tô 13:14) Trong sách Khải Huyền Giăng nói tất cả tạo vật ngợi khen Đấng Christ (chiên con) – Như vậy Đấng Christ không phải là một phần trong tạo vật (5:13).

Những hành động đã hoàn thành bởi Đức Chúa Trời được tin nơi Chúa Giê Xu. Chúa Giê Xu không chỉ sống lại từ trong kẻ chết (Giăng 5:21; 11:38–44) và tha thứ tội (Công vụ 5:31; 13:38) Ngài đã tạo nên và duy trì vũ trụ (Giăng 1:2; Cô-lô-se 1:16-17) Điểm này làm cho thuyết phục nhiều hơn khi người ta xem xét Đức Giê Hô Va nói rằng Ngài là Đấng duy nhất trong thời gian sáng tạo (Ê-sai 44:24) Hơn nữa Chúa Giê Xu có những thuộc tính chỉ Đức Chúa Trời mới có: Đời đời (Giăng 8:58) Toàn tại (Ma-thi-ơ 18:20, 28:20) Toàn tri (Ma-thi-ơ 16:21) Toàn năng (Giăng 11:38-44).

Bây giờ thần tánh của Đấng Christ chứng minh Ngài là Đức Chúa Trời hay là để lừa gạt người ta tin vào điều đó, có một số điều trong toàn thể chứng minh như: Đấng Christ dâng đời sống Ngài làm bằng chứng cho lời tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời bằng nhiều phép lạ và ngay cả Ngài sống lại từ trong kẻ chết. Một số phép lạ của Chúa Giê Xu như “Hóa nước thành rượu” (Giăng 2:7) “Đi bộ trên mặt nước” (Ma-thi-ơ 14:25) “Hóa bánh cho nhiều người ăn” (Giăng 6:11) “Làm sáng mắt người mù” (Giăng 9:7) “Người què đi được” (Mác 2:3) “Chữa lành nhiều người bệnh” (Ma-thi-ơ 9:35; Mác 1:40–42) và ngay cả kêu kẻ chết sống lại (Giăng 11:43–44; Lu-ca 7:11–15; Mác 5:35) Hơn nữa Đấng Christ chính mình sống lại sau khi chết khác xa với những thuật gọi hồn trong những truyện thần thoại của thế giới ngoại đạo. Không giống với sự phục sinh được nghiêm túc loan báo của những tôn giáo khác và không có những sự khẳng định nhiều hơn thuộc về Kinh Thánh. Theo Dr. Gary Habermas, có ít nhất mười hai sự kiện mà các học giả ngoại đạo phải thừa nhận:

1. Đức Chúa Giê Xu đã chết bởi sự đóng đinh.
2. Chúa Giê Xu đã bị chôn.
3. Sự chết của Ngài đã gây cho các môn đồ sự tuyệt vọng và mất hi vọng.
4. Ngôi mộ của Chúa đã được lấp kín nhưng ít ngày sau đã trống rổng.
5. Những môn đồ đã quả quyết họ gặp Chúa hiện ra sau khi Ngài sống lại.
6. Sau sự kiện này các môn đồ đã được biến đổi từ những người nghi ngờ trở thành người tin quả quyết.
7. Sứ điệp này trở thành trung tâm của việc truyền giảng trong Hội Thánh đầu tiên.
8. Sứ điệp này đã được truyền giảng tại Giê-ru-sa-lem.
9. Kết quả hiển nhiên của việc truyền giảng là Hội Thánh đã được khai sinh và lớn lên.
10. Ngày Phục sinh, ngày Chúa nhật, được Hội Thánh dùng làm ngày thờ phượng đầu tiên thay thế cho ngày Sa Bát (Ngày thứ Bảy).
11. Gia Cơ, một người hoài nghi đã trở lại đạo vì ông tin là đã thấy Chúa phục sinh.
12. Phao Lô, kẻ thù của Cơ Đốc giáo, đã trở lại đạo trong một kinh nghiệm mà ông tin rằng đã thấy Chúa phục sinh hiện ra.

Cho dầu có một số người chống lại bảng liệt kê cụ thể này nhưng chỉ vài điều đã đủ để chứng minh sự phục sinh đã được ghi chép trong Phúc âm: Sự chết của Chúa Giê Xu, sự chôn, sự sống lại và sự hiện ra (I Cô-rinh-tô 15:1-5) Trong khi có thể có nhiều lý thuyết giải thích về một hoặc hai sự kiện ở trên thì sự phục sinh giải thích tất cả. Những nhà phê bình đã thừa nhận các môn đồ đã loan báo họ nhìn thấy sự phục sinh của Chúa. Hoặc là họ nói dối hoặc là do ảo giác, nhưng những điều đó có làm thay đổi con người như đường lối của sự phục sinh đã làm? Trước hết, làm vậy họ được lợi ích gì? Cơ Đốc giáo lúc ấy chưa phổ biến chắc chắn không làm cho họ kiếm được nhiều tiền. Điều thứ hai, những người nói dối không bao giờ trở thành người tuận đạo thật. Không có cách giải thích nào tốt hơn cho sự phục sinh vì cớ lòng tự nguyện của các môn đồ để chết bằng những cái chết khủng khiếp cho niềm tin của họ. Vâng, dầu có nhiều người chết cho sự dối trá mà họ nghĩ là thật. Nhưng không một người nào chết cho một việc mà họ biết là không có thật.

Kết luận: Đấng Christ đã công bố Ngài là Đức Giê Hô Va, Ngài là Đức Chúa Trời (Không phải là “Thần” – mà là Đức Chúa Trời thật) Những môn đồ của Ngài (Những người Do Thái đã từng bị khiếp sợ bởi thần tượng) đã tin Ngài cũng như nương dựa vào Ngài. Đấng Christ đã chứng minh lời tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời qua những phép lạ bao gồm sự phục sinh làm thay đổi thế giới. Không có một giả thiết nào khác giải thích những sự kiện này.


© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 88.Có thật Chúa Giê Su đã tồn tại không? Có bằng chứng lịch sử nào về Chúa Giê Su?

Trả lời: Điển hình của người hỏi câu hỏi này là sự đòi hỏi phải trả lời câu hỏi theo điều kiện "Ngoài Kinh Thánh". Chúng tôi không chấp nhận ý này nếu Kinh Thánh không thể được coi là một nguồn cung cấp bằng chứng cho sự tồn tại của Chúa Giê Su. Tân Ước chứa hàng trăm tài liệu tham khảo về Chúa Giê Su. Có những người ghi ngày trên các thư tín của Phúc Âm vào thế kỷ thứ hai, hơn 100 năm sau sự chết của Chúa Giê Su. Ngay cả nếu điều này là trường hợp (mà chúng tôi đặc biệt bàn đến), trong thời hạn của những bằng chứng cổ, các tác phẩm dưới 200 năm sau khi sự kiện đã diễn ra được xem là chứng cứ rất đáng tin cậy. Hơn nữa, phần lớn các học giả (Cơ Đốc giáo và ngoại đạo) chấp thuận cho rằng thư tín của Phao Lô (Ít nhất là một số trong số đó) trong thực tế được viết bởi Phao Lô vào giữa thế kỷ đầu tiên, chưa đầy 40 năm sau khi Chúa Giê Su chết. Trong thời hạn của bằng chứng về những bản viết tay cổ, điều này là bằng chứng hùng hồn về sự hiện diện của một người tên là Giê Su tại Israel ngay đầu tiên của thế kỷ.

Cũng có thể nhận ra điều quan trọng vào năm 70 sau công nguyên, đế quốc La Mã đã xâm lăng, huỷ phá thành Jerusalem và tàn sát hầu hết những cư dân của đất nước Israel. Toàn bộ thành phố đã bị đốt cháy đến tận nền. Chúng ta không nên ngạc nhiên, sau đó, nếu nhiều bằng chứng về sự tồn tại của Chúa Giê Su đã bị tiêu hủy. Nhiều chứng nhân của Chúa Giê Su có thể đã bị giết. Những sự thật này có khả năng giới hạn số chứng nhân còn sót lại làm chứng về Chúa Giê Su.

Xem xét mục vụ của Chúa Giê Su phần lớn tiếp giáp ở những khu vực tương đối không quan trọng tại một góc nhỏ của Đế quốc La Mã, một số lượng thông tin đáng ngạc nhiên về Chúa Giê Su có thể được rút ra từ các nguồn lịch sử thế tục. Một số bằng chứng lịch sử quan trọng hơn của Chúa Giê Su bao gồm:

Tacitus sử gia của La Mã đầu thế kỷ, người được coi là một trong những nhà sử học chính xác nhiều về thế giới cổ đại, đề cập đến mê tín dị đoan "Cơ Đốc giáo" (Trong tiếng Latin từ Christus là Đấng Christ), người chịu đựng đau khổ dưới tay Bôn-xơ Phi-lát trong thời kỳ trị vì của Hoàng đế Tiberius. Suetonius, tổng thư ký cho Hoàng đế Hadrian, đã viết rằng có một người đàn ông tên là Chrestus (hoặc Christ), người sống trong thế kỷ thứ nhất (Annals 15,44).

Flavius Josephus là sử gia Do Thái nổi tiếng nhất. Trong tác phẩm “Antiquities” của mình nói đến Gia-cơ "Anh em của Chúa Giê Su, người được gọi là Christ" Có một câu gây tranh cãi (18:3) nói rằng "Bây giờ vào khoảng thời gian này. Chúa Giê Su, một người đàn ông khôn ngoan, nếu đúng luật gọi ông là một con người. Đối với ông là một trong những người hoạt động tài ba đáng ngạc nhiên ... Ông là Đấng Christ, ông đã sống lại hiện ra để cho họ thấy trong ngày thứ ba, như là các tiên tri siêu phàm đã báo trước những điều này và mười ngàn người khác liên quan đến ông ấy "Một phiên bản cho là "Tại thời điểm này có một người đàn ông khôn ngoan tên là Giê Su. Sự hướng dẫn của ông tốt đã được nổi tiếng là có đạo đức. Và rất nhiều người từ trong số những người Do Thái và các quốc gia khác đã trở thành môn đệ của ông ta. Phi Lát lên án ông và đóng đinh ông vào cây thập tự cho chết. Nhưng những môn đồ của ông đã không từ bỏ trọng trách môn đồ của ông. Họ báo cáo rằng ông đã xuất hiện với họ ba ngày sau khi ông bị đóng đinh, và rằng ông vẫn sống, theo như vậy có lẽ ông là Đấng Mê-si liên quan đến người mà các tiên tri đã kể lại chi tiết lạ lùng."

Julius Africanus trích dẫn từ sử gia Thallus trong một cuộc thảo luận về bóng tối theo sau sự đóng đinh của Chist (Tác phẩm Extant, 18).

Pliny trẻ, trong lá thư 10:96, ghi lại sự thờ phượng của những tín hữu Cơ Đốc giáo đầu tiên thực hiện bao gồm sự kiện tôn thờ Chúa Giê Su là Đức Chúa Trời và rất đạo đức, và ông cũng bao gồm một tham chiếu về bữa tiệc yêu thương và bản chất siêu việt của Chúa.

Kinh Talmud của dân Babylon (Sanhedrin 43a) khẳng định sự đóng đinh Chúa Giêsu vào chiều của lễ Vượt Qua và cáo trạng chống với Chúa Giê Su về việc Ngài thực hiện pháp thuật và khuyến khích người Do Thái bỏ đạo.

Lucian của Samosata là một nhà văn Hy Lạp ở thế kỷ thứ hai đã thừa nhận rằng những Cơ Đốc nhân đã thờ phượng Chúa Giêsu Christ, giới thiệu những lời khuyên dạy mới, là người đã bị đóng đinh vì tội của họ. Ông nói rằng sự dạy dỗ của Chúa Giêsu bao gồm tình huynh đệ giữa các tín hữu, quan trọng của sự biến cải, và tầm quan trọng của sự từ bỏ các vị thần khác. Cơ Đốc hữu sống theo luật lệ của Chúa Giêsu, tin rằng mình sẽ được sống đời đời, và có tính đặc trưng bởi suy ngẫm về sự chết, tận tâm tình nguyện dâng hiến đời sống và từ bỏ vật chất.

Mara Bar-Serapion xác nhận rằng Chúa Giê Su được coi là một người đàn ông khôn ngoan và đạo đức, được nhiều người xem là vua của Israel, đã bị người Do Thái sát hại, và đã sống trong những lời giảng dạy của những môn đệ Ngài.

Sau đó chúng ta có tất cả các tác phẩm của Trí huệ giáo (Phúc âm của lẽ thật, Những thứ kinh của Giăng, Phúc âm của Thô Ma, Tiểu luận sự Phục sinh,.v.v…) mà tất cả đều đề cập đến Chúa Giê Su.

Trong thực tế, chúng ta gần như có thể tái tạo lại phúc âm từ nguồn của thế giới không phải là Cơ Đốc giáo: Chúa Giê Su đã được gọi là Christ (Josephus), đã làm "phép thuật", dẫn dắt dân Israel vào những điều giáo huấn mới, và đã bị treo lên thập hình ngày lễ Vượt Qua vì họ (Babylon Talmud) tại xứ Giu Đê (Tacitus), nhưng Ngài đã công bố là Thiên Chúa và sẽ trở lại (Eliezar), mà những môn đồ Ngài tin Ngài là Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài (Pliny the Younger).

Có nhiều bằng chứng mạnh mẽ về sự tồn tại của Chúa Giê Su Christ, cả trong lịch sử thế tục và Kinh thánh. Có lẽ bằng chứng vĩ đại nhất mà Chúa Giê Su đã tồn tại là sự thật theo đúng nghĩa đen là hàng ngàn Cơ Đốc nhân trong thế kỷ trước, bao gồm mười hai môn đồ, đã sẵn sàng dâng cuộc sống của họ như là người tuận đạo cho Chúa Giê Su Christ. Con người sẽ chết cho những gì họ tin là sự thật, nhưng không ai chết cho những gì họ biết đó là sự lừa dối.



© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 89.Sự phục sinh của Chúa Giê Su Christ có thật?


Trả lời: Kinh Thánh trình bày bằng chứng kết luận rằng Chúa Giêsu Christ trong thực tế đã phục sinh từ cõi chết. Sự phục sinh của Đấng Christ được ghi lại trong Ma-thi-ơ 28:1-20; Mác 16:1-20; Lu-ca 24:1-53; và Giăng 20:1-21:25. Đấng Christ phục sinh cũng xuất hiện trong Sách Công vụ (Công vụ 1:1-11). Từ những đoạn này bạn có thể thu thập được một số "bằng chứng" về sự phục sinh của Đấng Christ. Đầu tiên là sự thay đổi mạnh mẽ trong các môn đồ. Họ từ một nhóm những người đàn ông sợ hãi và lẩn trốn trở nên mạnh mẽ, can đãm làm chứng nhân chia sẻ phúc âm khắp thế giới. Có gì khác giải thích điều thay đổi đáng kể này với việc Đấng Christ phục sinh đã hiện ra với họ?

Thứ hai là cuộc sống của sứ đồ Phao-lô. Điều gì làm ông đã thay đổi từ một người bắt bớ Hội Thánh trở thành một sứ đồ cho Hội Thánh? Đó là lúc Đấng Christ phục sinh hiện ra với ông trên đường đến Đa Mách (Công vụ 9:1-6). Một bằng chứng thuyết phục thứ ba là ngôi mộ trống. Nếu Đấng Christ không sống lại sau đó thì thân thể của Ngài ở đâu? Các môn đồ và những người khác đã nhìn thấy ngôi mộ nơi Ngài được chôn cất. Khi họ trở lại thân thể của Ngài không còn ở đó. Những thiên sứ đã loan báo rằng Ngài đã được sống lại từ cõi chết như Ngài đã hứa (Ma-thi-ơ 28:5-7). Thứ tư, bằng chứng bổ sung về sự phục sinh của Ngài là nhiều người gặp Chúa hiện ra (Ma-thi-ơ 28:5, 9, 16-17; Mác 16:9; Lu-ca 24:13-35; Giăng 20:19, 24, 26-29, 21:1-14; Công vụ 1:6-8; I Cô-rinh-tô 15:5-7).

Một bằng chứng khác về sự phục sinh của Chúa Giê Su là số lượng lớn các môn đồ chịu ảnh hưởng hiến dâng cho sự phục sinh của Chúa Giê Su. Một đoạn văn quan trọng về sự phục sinh của Chúa Giê Su là I Cô-rinh-tô 15. Trong chương này, sứ đồ Phao-lô giải thích tại sao nó là sự hiểu biết chủ yếu và tin cậy vào sự phục sinh của Đấng Christ. Sự phục sinh rất quan trọng bởi những lý do sau đây: 1) Nếu Đấng Christ đã không được sống lại từ cõi chết, những tín hữu sẽ không có gì cả ( I Cô-rinh-tô 15:12-15). 2) Nếu Đấng Christ đã không sống lại từ cõi chết, sự hi sinh của Ngài cho tội lỗi không có hiệu quả (I Cô-rinh-tô 15:16-19). Chúa Giê Su phục sinh đã chứng minh rằng cái chết của Ngài đã được chấp nhận bởi Thiên Chúa như là sự can thiệp cho tội lỗi của chúng ta. Nếu Ngài chỉ đơn giản là đã chết và ở lại trong sự chết, điều đó cho thấy sự hi sinh của Ngài không đủ. Kết quả là các tín hữu sẽ không được tha thứ tội của họ, và họ vẫn ở trong sự chết sau khi họ chết (I Cô-rinh-tô 15:16-19). Không có điều gì gọi là sự sống đời đời (Giăng 3:16). "Nhưng bây giờ, Ðấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ. (I Cô-rinh-tô 15:20).

Cuối cùng, Kinh Thánh nói rất rõ ràng rằng tất cả những ai tin vào Chúa Giê Su sẽ được sống lại để sống đời đời cũng giống như Ngài (I Cô-rinh-tô 15:20-23). I Cô-rinh-tô 15 đi vào cách thức để mô tả làm thế nào Chúa Giê Su phục sinh chứng minh sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và cung cấp cho chúng ta sức mạnh để sống đắc thắng trên tội lỗi (I Cô-rinh-tô 15:24-34). Nó mô tả tính chất vinh quang của thân thể phục sinh mà chúng ta sẽ nhận được (I Cô-rinh-tô 15:35-49). Nó công bố rằng, do kết quả của sự phục sinh của Chúa Giê Su, tất cả những ai tin vào Ngài cuối cùng chiến thắng trên sự chết (I Cô-rinh-tô 15:50-58).

Sự phục sinh của Đấng Christ là một lẽ thật vinh quang! "Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu. "(I Cô-rinh-tô 15:58). Theo Kinh Thánh, sự phục sinh của Chúa Giê Su là sự thật chắc chắn. Kinh Thánh ghi chép về sự phục sinh của Đấng Christ, ghi nhận về những lời làm chứng của hơn 400 người chứng kiến và tiến hành xây dựng giáo lý căn bản quan trọng Cơ Đốc giáo trên sự thật lịch sử về sự phục sinh của Chúa Giê Su.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 90.Chúa Giêsu con Thiên Chúa có nghĩa gì?

Trả lời: Chúa Giê Su con Thiên Chúa không phải theo ý tưởng cha và con của con người. Thiên Chúa đã không có gia đình và có một con trai. Thiên Chúa không đụng chạm gì với Ma ri để sinh ra một con trai. Chúa Giê Su là con Thiên Chúa theo ý nghĩa rằng Ngài là Thiên Chúa biểu hiện dưới hình thức con người (Giăng 1:1, 14). Chúa Giê Su là Thiên Chúa trong đó Ngài đã hình thành trong bào thai của Ma ri bởi Đức Thánh linh. Lu-ca 1:35 tuyên bố, "Thiên sứ truyền rằng: Ðức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Ðấng Rất Cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, cho nên con thánh sanh ra, phải xưng là Con Ðức Chúa Trời."

Khi xét xử Chúa Giê Su các nhà lãnh đạo Do Thái, các thầy tế lễ ra lệnh cho Chúa Giê Su " Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng? " (Ma-thi-ơ 26:63). "Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống.” (Ma-thi-ơ 26:64). Các nhà lãnh đạo Do Thái phản ứng bằng cách buộc tội Chúa Giê Su nói phạm thượng (Ma-thi-ơ 26:65-66). Sau đó, trước mặt Bôn-xơ Phi-Lát, "Dân Giu-đa lại nói rằng: Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết; vì hắn tự xưng là Con Ðức Chúa Trời" (John 19:7). Tại sao lời công bố Ngài là con Thiên Chúa được coi là phạm thượng và đáng bị lảnh án tử hình? Các nhà lãnh đạo Do Thái hiểu chính xác những gì Chúa Giê Su muốn nói qua nghĩa của cụm từ "Con Thiên Chúa" Con Thiên Chúa là đồng nhất bản chất như Thiên Chúa. Con Thiên Chúa là "Thiên Chúa". Lời công bố đồng nhất bản chất như Thiên Chúa, trong thực tế chính là Thiên Chúa.- là báng bổ đối với những nhà lãnh đạo Do Thái, do đó họ đòi cho được Chúa phải chết, trong việc giữ đúng luật trong Lê vi ký 24:15. Hê-bơ-rơ 1:3 diễn giải rất rõ ràng, " Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Ðức Chúa Trời và hình bóng của bổn thể Ngài."

Một ví dụ khác có thể được tìm thấy trong Giăng 17:12 nơi Giu Đa được mô tả là con của sự hư mất Giăng 6:71 cho chúng ta biết Giu Đa là con trai của Si-môn Ích-ca-ri-ốt. Vậy Giăng 17:12 có phải mô tả Giu Đa theo nghĩa con trai của sự hư mất? Từ “Hư mất” có nghĩa là "trầm luân, diệt vong, đoạ đày" Giu Đa không phải là con trai của " trầm luân, diệt vong, đoạ đày " theo sát nghĩa nhưng những điều đó nhận dạng cuộc sống của Giu Đa. Giu Đa là một biểu hiện của sự hư mất. Theo cách đó, Chúa Giê Su con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chúa Giê Su là biểu hiện về Thiên Chúa. (Giăng 1:1,14).


© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 91. Tại sao nữ đồng trinh sinh ra rất quan trọng?

Trả lời: Nền tảng giáo lý về nữ đồng trinh sinh ra là quan trọng chính yếu (Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:23; Lu-ca 1:27, 34). Trước tiên, chúng ta hãy xem cách Kinh Thánh mô tả các sự kiện. Đáp lại câu hỏi của Ma-ri "Làm sao có được sự đó?" (Lu-ca 1:34), thiên sứ Gáp-ri-ên nói "Chúa Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng rất cao sẽ che phủ ngươi" (Lu-ca 1:35). Thiên sứ khuyến khích Giô Sép để không phải lo sợ kết hôn với Ma-ri bằng những lời này: "Con mà người chịu thai ấy là từ Chúa Thánh Linh" (Ma-thi-ơ 1:20). Ma-thi-ơ viết rằng trinh nữ "là người chịu thai bởi Đức Thánh Linh" (Ma-thi-ơ 1:18). Ga-la-ti 4:4 cũng dạy về nữ đồng trinh sinh ra: "Thiên Chúa đã sai con Ngài bởi một người nữ sinh ra."

Từ những đoạn Kinh Thánh này, điều chắc chắn rõ ràng rằng sự giáng sinh của Chúa Giê Su là kết quả của Chúa Thánh Linh làm việc bên trong cơ thể của Ma-ri. Vô hình (Thánh Linh) và hữu hình (tử cung của Ma-ri) cả hai kết hợp lại. Ma-ri tất nhiên, không thể tự mình thụ thai, và trong ý thức rằng cô ấy đơn giản là một “Cái bình bằng đất” Chỉ Thiên Chúa có thể thực hiện các phép lạ của sự hiện thân.

Tuy nhiên, từ chối một kết hợp vật chất giữa Ma-ri và Chúa Giê Su hàm ý rằng Chúa Giê Su đã không thực sự là con người. Kinh Thánh dạy rằng Chúa Giê Su hoàn toàn là một con người, với một cơ thể vật chất giống như chúng ta. Điều này Ngài đã nhận được từ Ma-ri. Đồng thời, Chúa Giê Su hoàn toàn là Thiên Chúa, với một sự sống đời đời, bản chất vô tội (Giăng 1:14; I Ti-mô-thê 3:16; Hê-bơ-rơ 2:14-17.)

Chúa Giê Su đã không sinh ra trong tội lỗi; đó là Ngài không có bản chất tội lỗi (Hê-bơ-rơ 7:26). Có vẻ như là bản chất tội lỗi được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua người cha (Rô ma 5:12, 17, 19). Người nữ đồng trinh sinh ra đã phá vỡ việc di truyền bản chất tội lỗi và cho phép Thiên Chúa đời đời trở thành một con người hoàn hảo.


© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 92.Có phải Chúa Giê Su chịu đóng đinh vào ngày Thứ Sáu? Nếu vậy, làm thế nào Ngài đã trãi qua ba ngày trong phần mộ nếu Ngài phục sinh vào Chúa nhật?

Trả lời: Kinh Thánh không nói rõ ràng Chúa Giê Su chịu đóng đinh ngày thứ mấy trong tuần. Có hai quan điểm rộng rãi nhất được cho là thứ Sáu và thứ Tư. Tuy nhiên, một số khác bằng cách sử dụng tổng hợp của cả hai đối tượng thứ Sáu và thứ Tư, lập luận cho rằng đó là ngày thứ Năm.

Chúa Giê Su nói trong Ma-thi-ơ 12:40, "Vì như Giô Na đã ở ba ngày ba đêm trong bụng của con cá rất lớn, cũng vậy Con Người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm " Những người chủ trương cho sự đóng đinh ngày thứ Sáu nói rằng hiện vẫn có cách hợp lệ, mà qua đó Ngài có thể được xem như đã ở trong phần mộ ba ngày. Trong suy nghĩ của người Do Thái thế kỷ đầu, một phần trong ngày được coi là một ngày. Kể từ khi Chúa Giê Su được chôn trong mồ vào một phần của ngày thứ Sáu, trọn ngày thứ Bảy, và một phần của Chúa Nhật-Ngài có thể được coi là đã ở trong mộ ba ngày. Một trong những lý luận chính cho ngày thứ Sáu được tìm thấy trong Mác 15:42, trong đó ghi chép rằng Chúa Giê Su đã chịu đóng đinh "Vào ngày trước ngày Sa Bát." Nếu đó là Sa Bát hàng tuần, tức là ngày thứ Bảy, như vậy sự kiện dẫn đến việc đóng đinh là ngày thứ Sáu. Một lý luận khác cho ngày thứ Sáu, nói những câu Kinh Thánh trong Ma-thi-ơ 16:21 và Lu-ca 9:22 dạy rằng Chúa Giê Su sẽ sống lại vào ngày thứ ba, do đó Ngài sẽ không cần phải ở trong mộ đầy đủ ba ngày ba đêm. Nhưng trong khi một số sử dụng các bản dịch "vào ngày thứ ba" cho những câu này, không phải tất cả, và không phải mọi người đều đồng ý rằng "vào ngày thứ ba" là cách tốt nhất để dịch các câu ấy. Hơn nữa Mác 8:31 nói rằng Chúa Giê Su sẽ được sống lại "sau" ba ngày.

Lý luận ngày thứ Năm mở rộng trên quan điểm ngày thứ Sáu và chủ yếu là các lập luận rằng có quá nhiều sự kiện (số đếm được nhiều khoảng hai mươi sự kiện) xảy ra giữa sự chôn cất Chúa Giê Su xảy ra từ tối thứ Sáu đến buổi sáng Chủ nhật. Những người ủng hộ quan điểm ngày thứ Năm đưa ra đây là một vấn đề đặc biệt khi chỉ có trọn một ngày thứ Bảy giữa ngày thứ Sáu và và ngày Chúa nhật mà ngày đó lại là ngày Sa Bát của người Do Thái. Một ngày bổ sung hay là hai ngày loại bỏ đó là vấn đề. Những người ủng hộ ngày thứ Năm có thể viện lý do như sau: Giả sử bạn không gặp một người bạn kể từ chiều thứ Hai. Lần kế tiếp bạn gặp anh ấy và buổi sáng thứ Năm và bạn nói, "Tôi đã không gặp anh trong ba ngày rồi" mặc dù về chi tiết nó chỉ được 60 giờ (tức hai ngày rưỡi). Nếu Chúa Giê Su chịu đóng đinh vào ngày thứ Năm, ví dụ cho thấy cách này có thể được xem là ba ngày.

Các ý kiến nói ngày thứ Tư cho rằng có hai ngày Sa Bát trong tuần đó. (Mác 15:42; Lu-ca 23:52-54) Sau ngày Sa Bát thứ nhất (Xảy ra vào buổi tối đóng đinh), các phụ nữ mua các loại thuốc thơm-Chú ý rằng họ đã mua thuốc thơm sau ngày Sa Bát (Mác 16:1). Quan điểm giữ ngày Thứ tư cho "Sa Bát" này là lễ Vượt Qua (xem trong Lê-vi-ký 16:29-31, 23:24-32, 39, nơi những ngày thánh quan trọng không nhất thiết phải là ngày thứ Bảy trong tuần mới được gọi là ngày Sa Bát). Ngày Sa-bát thứ hai trong tuần đó là ngày Sa Bát thường lệ hàng tuần. Lưu ý rằng trong Lu-ca 23:56, những người phụ nữ đã mua các loại thuốc thơm sau ngày Sa Bát đầu tiên trở lại và chuẩn bị các loại thuốc thơm sau đó "nghỉ ngày Sa Bát" (Lu-ca 23:56). Đối với ý kiến này cho rằng họ không thể mua các loại thuốc thơm sau ngày Sa-bát, nhưng mà chuẩn bị thuốc thơm trước Sa Bát-trừ khi có hai Sa Bát. Với quan điểm hai ngày Sa Bát, nếu Chúa Giê Su đã chịu đóng đinh vào ngày Thứ năm, sau đó là ngày Sa Bát rất thánh (Lễ Vượt Qua) sẽ bắt đầu lúc mặt trời lặn thứ Năm và kết thúc lúc mặt trời lặn thứ Sáu, lúc bắt đầu thứ Bảy hàng tuần sẽ là ngày Sa-Bát. Việc mua thuốc thơm sau khi Sa Bát đầu tiên (Lễ Vượt Qua) rơi vào ngày thứ Bảy sẽ có nghĩa là họ đã vi phạm luật Sa Bát.

Vì vậy, theo quan điểm ngày thứ Tư, giải thích điều đó chỉ để tránh mâu thuẩn các khoản Kinh Thánh nói đến những người phụ nữ và các loại thuốc thơm cũng như giữ quan điểm hiểu biết theo từ ngữ của Ma-thi-ơ 12:40, Chúa Giê Su chịu đóng đinh vào ngày thứ Tư. Ngày Sa-bát đó là một ngày rất thánh (Lễ Vượt Qua) xảy ra vào ngày thứ Năm, các phụ nữ mua các loại thuốc thơm (sau đó) ngày thứ Sáu và quay trở lại chuẩn bị các loại thuốc thơm trong ngày hôm ấy, họ nghỉ ngày thứ Bảy đó là ngày Sa Bát hàng tuần, sau đó đem các loại thuốc thơm đến phần mộ vào sáng sớm Chúa nhật. Chúa Giê Su đã được chôn gần mặt trời lặn ngày thứ Tư, được bắt đầu từ thứ Năm trong lịch Do Thái. Cách sử dụng lịch Do Thái, bạn có đêm thứ Năm (một đêm), ngày thứ Năm (ngày một), đêm thứ Sáu (hai đêm), ngày thứ Sáu (ngày hai), đêm thứ Bảy (ba đêm), ngày thứ Bảy (ba ngày). Chúng ta không biết chính xác khi Ngài sống lại, nhưng chúng ta biết rằng điều đó đã xảy ra trước khi mặt trời mọc vào ngày Chúa nhật (Giăng 20:1, Ma-ri Ma-đơ-len đến mộ "trong lúc trời vẫn còn tối"), do đó Ngài có thể đã sống lại rất sớm ngay sau khi mặt trời lặn tối thứ bảy, bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần đối với người Do Thái.

Một vấn đề có thể có đối với quan điểm ngày thứ Tư là hai môn đồ đi với Chúa Giê Su trên đường về làng Em-ma-út đã làm như vậy vào "cùng ngày" phục sinh của Ngài (Lu-ca 24:13). Các môn đồ, những người không nhận ra Chúa Giê Su, đã nói với Ngài về sự đóng đinh Chúa Giê Su (24:21) họ nói rằng "Hôm nay là ngày thứ ba kể từ khi những việc này xảy ra" (24:22). Thứ Tư đến Chúa nhật là bốn ngày. Một lời giải thích có thể chấp nhận là chúng có thể đã được tính kể từ tối thứ Tư mai táng Chúa Giê Su, mà bắt đầu Thứ Năm của người Do Thái, và từ thứ Năm đến Chúa nhật có thể được tính là ba ngày.

Trong sự sắp xếp vĩ đại về những điều này không có gì quan trọng phải tìm biết Chúa Giê Su chịu đóng đinh vào ngày thứ mấy. Nếu nó rất quan trọng lời Thiên Chúa đã có thể truyền đạt rõ ràng về ngày và thời gian. Điều quan trọng là Ngài đã chết và thân thể vật chất của Ngài đã sống lại từ cõi chết. Điều quan trọng không kém là lý do Ngài chết để nhận lấy hình phạt mà tất cả các tội nhân đáng phải chịu. Giăng 3:16 và 3:36 cả hai tuyên bố rằng hãy đặt niềm tin của bạn vào Ngài kết quả bạn ở trong sự sống đời đời! Điều này là thật hơn nữa dầu cho Ngài đã đóng đinh trên thập tự vào ngày thứ Tư, thứ Năm, hay thứ Sáu.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 93. Chúa Giê Su có đến địa ngục giữa cái chết và sự phục sinh của Ngài không?

Trả lời: Phần lớn đều nhằm lẫn về trường hợp của câu hỏi này. Khái niệm này xuất phát từ Bài tín điều các sứ đồ đầu tiên, trong đó có câu "Ngài đi xuống địa ngục" Cũng có một vài bản Kinh Thánh tùy thuộc vào cách thức dịch, mô tả Chúa Giê Su đi xuống "địa ngục.." Để nghiên cứu vấn đề này, điều quan trọng đầu tiên phải hiểu những gì Kinh Thánh dạy về địa hạt của người chết.

Trong Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ, từ ngữ được sử dụng để mô tả địa hạt của người chết là sheol. Đơn giản chỉ có nghĩa là “Nơi của người chết" hoặc "Chỗ của những linh hồn/ linh từ trần" Từ ngữ trong Kinh Thánh Tân Ước tiếng Hi Lạp sử dụng cho địa ngục là "Hades" có nghĩa "nơi của người chết". Những bản Kinh Thánh khác trong Tân Ước chỉ ra “Sheol hay Hades” là một chỗ tạm thời, nơi linh hồn được tạm giữ trong khi họ đang chờ đợi sự phục sinh và phán xét cuối cùng. Khải Huyền 20:11-15 cho một sự phân biệt rõ ràng giữa hai chỗ Địa ngục (Hồ lửa) là nơi thường trú và án phạt cuối cùng cho người bị hư mất. Hades là một nơi tạm thời. Vì vậy, không, Chúa Giê Su đã không đi xuống địa ngục, vì địa ngục là một địa hạt trong tương lai chỉ đặt vào hiệu lực sau khi toà án lớn trắng phán xét (Khải Huyền 20:11-15).

“Sheol / Hades” là một địa hạt chia ra hai nơi (Ma-thi-ơ 11:23, 16:18; Lu-ca 10:15, 16:23; Công vụ 2:27-31), nơi tạm giữ người được cứu và người bị hư mất. Nơi ở của người được cứu gọi là "Thiên đàng" và "Lòng của Ap-ra-ham" Những nơi ở của người được cứu và người bị hư mất được ngăn cách bởi một vực sâu không đáy (Lu-ca 16:26). Khi Chúa Giê Su thăng thiên về Thiên đàng, Ngài đem những người cư ngụ của Paradise (các tín hữu) đến với Ngài (Ê-phê-sô 4:8-10). Phía bên người hư mất của Sheol / Hades vẫn không thay đổi. Tất cả những người không tin chết đi ở đó đang chờ phán xét cuối cùng của họ trong tương lai. Chúa Giêsu có đi đến sheol / Hades không? Có, theo Ê-phê-sô 4:8-10 và I Phi-e-rơ 3:18-20.

Một số rắc rối đã phát sinh từ đoạn văn như Thi Thiên 16:10-11 theo bản dịch King James, "Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi trong địa ngục; cũng không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát. Chúa sẽ chỉ cho tôi biết con đường sự sống". "Địa ngục" không phải là cách dịch đúng của câu Kinh Thánh này. Người đọc sửa cho đúng là "mồ mả" hoặc “Nơi tạm giữ linh hồn" Chúa Giêsu đã nói với kẻ trộm bên cạnh Ngài, "Hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi" (Lu-ca 23:43). Thân thể Chúa Giê Su nằm trong phần mộ, linh hồn của Ngài / linh đã đi đến Ba-ra-đi " Một bên của “Sheol / Hades”. Sau đó Ngài đã di chuyển tất cả những người công bình chết từ Ba-ra-đi dẫn họ theo Ngài đến Thiên đàng. Thật không may, trong nhiều bản dịch Kinh Thánh, dịch giả không nhất quán hoặc hiệu chỉnh trong cách họ dịch từ tiếng Do Thái và Hy Lạp cho "Sheol", "Hades", và “Địa ngục "."

Một số có quan điểm cho rằng Chúa Giê Su đã đi đến "địa ngục" hoặc chịu đựng nơi “Sheol / Hades” để tiếp tục bị trừng phạt vì tội lỗi của chúng ta. Ý tưởng này hoàn toàn không đúng với Kinh Thánh. Sự chết của Chúa Giê Su trên thập tự giá và sự đau khổ của Ngài trên đất này là sự cung cấp đủ cho sự cứu chuộc chúng ta. Đó là huyết đã đổ ra của Ngài có hiệu lực tẩy sạch tội lỗi của chính chúng ta (I Giăng 1:7-9). Khi Ngài bị treo trên thập tự giá, Ngài đã gánh tội lỗi của toàn nhân loại trên chính Ngài. Ngài trở nên tội lỗi vì chúng ta: "Ðức Chúa Trời đã làm cho Ðấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Ðấng đó mà được trở nên sự công bình của Ðức Chúa Trời" (II Cô-rinh-tô 5:21). Ý nghĩa của việc gánh thay tội này giúp chúng ta hiểu cuộc chiến đấu của Chúa Giê Su trong vườn Ghết-sê-ma-nê với chén tội lỗi đó sẽ đổ vào Ngài tại nơi thập tự giá.

Lúc Chúa Giê Su kêu lớn trên thập tự giá, "Cha ơi! Cha ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?" (Ma-thi-ơ 27:46) Có nghĩa là ngay sau đó Ngài đã bị tách khỏi Cha vì tội lỗi của nhân loại đổ vào Ngài. Khi Ngài dâng linh hồn vào tay Cha, Ngài nói: "Hỡi Cha, tôi giao linh hồn tôi trong tay Cha" (Lu-ca 23:46). Sự chịu đựng của Ngài trên đất này đã hoàn tất. Linh hồn / Linh Ngài đã đi đến Ba-ra-đi phía bên này của Hades. Chúa Giê Su đã không đi đến địa ngục. Sự đau khổ của Chúa Giê Su đã kết thúc vào thời điểm Chúa chết. Việc thanh toán cho tội lỗi đã được trả. Sau đó Ngài chờ đợi sự phục sinh của thân thể và sẽ trở nên vinh hiển trong sự thăng thiên. Chúa Giê Su có đi vào địa ngục? Không. Chúa Giê Su có đi đến nơi linh của người chết bị tạm giữ? Có.


© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 94.Chúa Giê Xu ở đâu giữa ba ngày Chúa chết và sống lại?

Trả lời: I Phi-e-rơ 3:18-19 cho biết: “Vả, Ðấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Ðấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Ðức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần linh hồn thì được sống. Ấy bởi đồng một linh hồn đó, Ngài đi giảng cho các linh hồn bị tù.”

Cụm từ “Về phần linh hồn” trong câu 18 được giải thích chính xác như cụm từ “Về phần xác thịt” vì thế dường như có mối liên hệ tốt nhất giữa từ ngữ “linh hồn” và “xác thịt”. Xác thịt và linh hồn là thân thể và linh của Đấng Christ. Từ ngữ sống trong linh hồn cho thấy sự kiện tội lỗi Chúa mang và chịu chết đã đem đến sự phân rẽ linh hồn của Ngài khỏi Đức Chúa Cha (Ma-thi-ơ 27:46). Sự tương phản giữa xác thịt và linh hồn như trong Ma-thi-ơ 27:41 và Rô Ma 1:3-4 và không giữa xác thịt và Thánh linh của Đấng Christ. Khi sự chuộc tội của Đấng Christ đã hoàn tất, linh hồn của Ngài đã hồi phục lại giao hảo với những điều đã bị phá hủy.

I Phi-e-rơ 3:18-22 diễn tả mối liên hệ cần thiết giữa sự chịu chết của Đấng Christ (Câu 18) và sự vinh quang của Ngài (câu 22). Chỉ có Phi-e-rơ ghi lại những thông tin cụ thể giữa hai sự kiện này. Từ ngữ “giảng” trong câu 19 không phải là từ thông thường trong Tân Ước dùng để diễn tả sự rao giảng Phúc âm. Nhưng nghĩa đen của nó là sứ giả truyền thông điệp. Chúa Giê Xu đã chịu đau đớn và chết trên thập tự, thân thể của Ngài đã đặt vào cõi chết, và linh hồn của Ngài vì tội lỗi đã chết. Nhưng linh hồn Ngài được làm sống lại và Ngài đầu phục Đức Chúa Cha. Đối với Phi-e-rơ đôi khi giữa sự chết và sự sống lại của Đấng Christ Ngài đã thực hiện sự công bố đặc biệt cho “Những linh hồn bị tù.”

Bắt đầu với sự xem xét của Phi-e-rơ về con người như là “linh hồn” không phải là “linh” (3:20) Trong Tân ước từ ngữ “linh” để chỉ về những Thiên sứ hay ma quỷ không phải diễn tả về con người và câu 22 dường như diễn tả theo nghĩa này. Cũng vậy không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng Chúa Giê Xu viếng thăm địa ngục. Công vụ 2:31 nói rằng Ngài đến nơi “giam giữ linh hồn”, nơi nầy không phải là địa ngục. Từ ngữ “Nơi giam giữ linh hồn” được xem như là địa hạt của sự chết. Một nơi tạm để người chết chờ ngày sống lại. Khải Huyền 20:11-15 trong các bản dịch NSAB và NIV cho thấy sự phân biệt rõ ràng giữa hai chỗ. Địa ngục là nơi vĩnh cửu trong ngày cuối cùng để phán xét những người bị hư mất. Nơi giam giữ linh hồn là chỗ tạm thời.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 95.Chúa Giê-xu đã có thể phạm tội được không? Nếu Ngài đã không có khả năng phạm tội, làm thế nào Ngài thật sự có thể 'thông cảm với những sự yếu đuối của chúng ta' (Hê-bơ-rơ 4:15)? Nếu Ngài đã không thể phạm tội, điểm mấu chốt của sự cám dỗ là gì?

Trả lời: Có hai phía đối với câu hỏi thú vị này. Thật quan trọng để nhớ rằng đây không phải là một câu hỏi liệu Chúa Giê-xu đã phạm tội hay không. Cả hai phía đều đồng ý, như Kinh Thánh nói cách rõ ràng, rằng Chúa Giê-xu đã không phạm tội (2 Cô-rinh-tô 5:21; 1 Phi-e-rơ 2:22). Câu hỏi là liệu Chúa Giê-xu đã có khả năng phạm tội hay không. Những người ủng hộ thuyết "không thể phạm tội lỗi" tin rằng Chúa Giê-xu không thể có khả năng phạm tội được. Những người theo thuyết "có thể phạm tội lỗi" tin rằng Chúa Giê-xu có thể phạm tội, nhưng Ngài đã không phạm tội. Quan điểm nào là đúng? Sự dạy dỗ rõ ràng của Kinh Thánh là Chúa Giê-xu không thể nào phạm tội được—Chúa Giê-xu đã không thể phạm tội. Nếu Ngài đã có thể phạm tội, Ngài vẫn sẽ có thể phạm tội ngày nay bởi vì Ngài giữ cùng bản chất như lúc Ngài sống trên đất. Ngài là Đấng Thần Nhân và sẽ mãi như vậy, có đầy đủ thần tánh và đầy đủ nhân tánh được hòa hợp trong một con người cũng như không thể chia ra được. Tin rằng Chúa Giê-xu có thể phạm tội là tin rằng Đức Chúa Trời có thể phạm tội. “Vì Đức Chúa Trời đã vui lòng đặt để mọi sự viên mãn của mình ở trong Ngài” (Cô-lô-se 1:19,TTHD). Cô-lô-se 2:9 nói thêm, “Vì sự đầy trọn của thần tính hiện diện trong thân thể hữu hình của Ngài”.

Mặc đầu Chúa Giê-xu là con người hoàn toàn, Ngài đã không được sanh ra với cùng bản chất tội lỗi như chúng ta được sanh ra. Ngài chắc chắn đã bị cám dỗ trong cùng cách chúng ta bị cám dỗ, bởi vì những cám dỗ đã được Satan bày ra trước Ngài, nhưng Ngài vẫn vô tội vì Đức Chúa Trời không có khả năng phạm tội. Điều đó đi ngược với bản tánh thật sự của Ngài (Ma-thi-ơ 4:1; Hê-bơ-rơ 2:18, 4:15; Gia-cơ 1:13). Tội lỗi theo định nghĩa là một sự xâm phạm Luật Pháp. Đức Chúa Trời đã tạo ra Luật Pháp, và Luật Pháp bản chất nó là thứ Đức Chúa Trời sẽ làm hoặc không làm; do đó, tội lỗi là bất cứ điều gì Đức Chúa Trời sẽ không làm bởi chính bản chất của Ngài.

Bị cám dỗ, tự nó và về phần nó, không phải là tội lỗi (“not”?). Một người có thể cám dỗ bạn với một điều gì đó mà bạn không có khao khát làm, như phạm tội giết người hay tham gia vào những sự đồi trụy về tình dục. Bạn có thể không có mong muốn làm bất cứ điều để gì dự phần vào những hành động này, nhưng bạn vẫn bị cám dỗ bởi vì một ai đó đã đặt khả năng xảy ra/sự có thể trước mặt bạn. Có ít nhất hai định nghĩa cho từ "bị cám dỗ":

1) Có một đề nghị tội lỗi được gợi ý cho bạn bởi một người nào đó hay một điều nào đó ở bên ngoài bản thân bạn hoặc bởi bản chất tội lỗi của chính bạn.

2) Xem xét việc thật sự tham gia vào một hành động tội lỗi và những điều vui thích/khoái lạc cùng những hậu quả của một hành động như thế tới mức độ mà hành động đó thật sự đang xảy ra trong tâm trí bạn.

Định nghĩa đầu tiên không mô tả một hành động/tư tưởng tội lỗi; định nghĩa thứ hai thì có. Khi bạn chăm chú vào một hành động tội lỗi và xem xét làm thế nào bạn có thể có khả năng làm cho nó xảy ra, bạn đã và đang bước qua lằn ranh tội lỗi. Chúa Giê-xu đã bị cám dỗ theo cách của định nghĩa một ngoại trừ việc Ngài đã không bao giờ bị cám dỗ bởi một bản chất tội lỗi bởi vì nó đã không tồn tại bên trong Ngài. Satan đã đề xuất một vài hành động tội lỗi nhất định cho Chúa Giê-xu, nhưng Ngài đã không có khao khát bên trong nào để tham gia vào tội lỗi đó. Vì thế, Ngài đã bị cám dỗ như chúng ta nhưng vẫn vô tội.

Những người ủng hộ thuyết có khả năng phạm tội tin rằng, nếu Chúa Giê-xu đã không thể phạm tội, thì Ngài đã không thể thật sự kinh nghiệm được sự cám dỗ, và do đó đã không thể thấu cảm với những tranh đấu và những sự cám dỗ của chúng ta với tội lỗi. Chúng ta phải nhớ rằng một người không cần phải kinh nghiệm một điều gì đó để hiểu điều đó. Đức Chúa Trời biết mọi thứ về mọi điều. Trong khi Đức Chúa Trời đã không bao giờ có khao khát phạm tội, và cực kỳ dứt khoát không bao giờ phạm tội, Đức Chúa Trời biết và hiểu tội lỗi là gì. Đức Chúa Giê-xu có thể thông cảm với những sự cám dỗ của chúng ta bởi vì Ngài biết, không phải bởi vì Ngài đã "kinh nghiệm" tất cả những điều giống như chúng ta kinh nghiệm.

Chúa Giê-xu biết bị cám dỗ là như thế nào, nhưng Ngài không biết phạm tội là như thế nào. Điều này không ngăn cản Ngài giúp đỡ chúng ta. Chúng ta bị cám dỗ với những tội lỗi phổ biến đối với con người (1 Cô-rinh-tô 10:13). Những tội lỗi này thường có thể được phân loại thành ba dạng: “mê tham của mắt, mê tham của xác thịt, và kiêu ngạo của đời" (1 Giăng 2:16 NKJV). Hãy xem xét kỹ cám dỗ và tội lỗi của Ê-va, cũng như sự cám dỗ của Chúa Giê-xu, và bạn sẽ thấy rằng những cám dỗ đối với mỗi người đều đến từ ba phạm trù này. Chúa Giê-xu đã bị cám dỗ trong mọi cách và mọi lĩnh vực mà chúng ta bị cám dỗ, nhưng vẫn thánh khiết một cách trọn vẹn. Mặc dầu bản chất hư hoại của chúng ta sẽ có khao khát nội tại tham gia vào những tội lỗi nào đó, chúng ta vẫn có khả năng, qua Đấng Cơ Đốc, thắng hơn tội lỗi bởi vì chúng ta không còn là nô lệ/tôi mọi cho tội lỗi nữa nhưng đúng hơn là tôi mọi của Đức Chúa Trời ( Rô-ma 6, đặc biệt là các câu 2 và 16-22).

© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 96. Tại sao gia phả của Chúa Giê-xu trong Ma-thi-ơ và trong Lu-ca lại quá khác biệt?

Trả lời: Phả hệ của Chúa Giê-xu được chép trong hai chỗ trong Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 1 and Lu-ca 3:23-38. Ma-thi-ơ truy phả hệ từ Chúa Giê-xu ngược về Áp-ra-ham. Lu-ca truy phả hệ đó từ Chúa Giê-xu về A-đam. Tuy nhiên, có lý do tốt để tin rằng Ma-thi-ơ và Lu-ca thật sự đang truy những phả hệ khác nhau. Lấy ví dụ, Ma-thi-ơ chép cha của Giô-sép là Gia-cốp (Ma-thi-ơ 1:16), trong khi Lu-ca chép cha của Giô-sép là Hê-li (Lu-ca 3:23). Ma-thi-ơ truy gia phả đó qua con trai của Đa-vít là Sa-lô-môn (Ma-thi-ơ 1:6), trong khi Lu-ca truy gia phả đó qua con trai của Đa-vít là Na-than (Lu-ca 3:31). Quả thật, giữa Đa-vít và Chúa Giê-xu, các tên chung trong hai phả hệ là Sa-la-thi-ên và Xô-rô-ba-bên (Ma-thi-ơ 1:12; Lu-ca 3:27).

Một số người chỉ đến những khác biệt này như là bằng chứng của những sai sót trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, người Do Thái đã là những người ghi chép cách tỉ mỉ, đặc biệt khi liên quan đến các gia phả. Thật không thể tưởng tượng được rằng Ma-thi-ơ và Lu-ca có thể xây dựng hai gia phả trái ngược hoàn toàn cho cùng một dòng dõi. Một lần nữa, từ Đa-vít cho đến Chúa Giê-xu, hai phả hệ là hoàn toàn khác nhau. Thậm chí khi nhắc đến Sa-la-thi-ên và Xô-rô-ba-bên, hầu như hai sách nhắc đến họ như nhắc đến những cá nhân khác có cùng tên mà thôi. Ma-thi-ơ chép cha của Sa-la-thi-ên là Giê-chô-nia trong khi Lu-ca chép cha của Sa-la-thi-ên là Nê-ri. Thật bình thường để một người có tên là Sa-la-thi-ên đặt tên con trai mình là Xô-rô-ba-bên theo phương diện của những cá nhân nổi tiếng có các tên đó (xin xem các sách Ê-xơ-ra và Nê-hê-mi).

Một giải thích, được cho là của sử gia giáo hội Eusebius, là Ma-thi-ơ đang truy theo dòng dõi chính, hay dòng dõi sinh học, trong khi Lu-ca đang chép sự xảy ra của "Thế huynh hôn" (hôn nhân anh em nối dòng dỗi/lưu truyền dòng dỗi cho anh). Nếu một người chết không có con trai nào, theo truyền thống thì anh/em của người đó phải lấy người góa phụ và có một con trai để nối danh cho người đã chết. Theo thuyết của Eusebius, Mên-chi (Lu-ca 3:24) và Ma-than (Ma-thi-ơ 1:15) đã kết hôn ở những thời điểm khác nhau với cùng một người nữ (truyền thống gọi bà là Estha). Điều này sẽ khiến Hê-li (Lu-ca 3:23) và Gia-cốp (Ma-thi-ơ 1:15) là những anh em cùng mẹ khác cha. Hê-li sau đó chết mà không có con trai, và do đó người anh em (cùng mẹ khác cha) của ông là Gia-cốp đã cưới vợ góa của Hê-li, người đã sinh ra Giô-sép. Điều này sẽ làm cho Giô-sép là "con trai của Hê-li" về mặt pháp luật và là "con trai của Gia-cốp" về mặt sinh học. Như vậy, Ma-thi-ơ và Lu-ca đều đang chép cùng một phả hệ (phả hệ của Giô-sép), nhưng Lu-ca theo phả hệ theo luật pháp trong khi Ma-thi-ơ theo phả hệ sinh học.

Hầu hết các học giả Kinh Thánh bảo thủ nhất ngày nay đều đi theo một cái nhìn khác, ấy là, Lu-ca đang chép phả hệ của Ma-ri và Ma-thi-ơ đang ghi lại phả hệ của Giô-sép. Ma-thi-ơ thì theo dòng tộc của Giô-sép (cha về mặt luật pháp của Chúa Giê-xu), qua Sa-lô-môn là con trai Đa-vít, trong khi Lu-ca đang đi theo dòng tộc của Ma-ri (họ hàng huyết thống của Chúa Giê-xu), qua Na-than là con trai Đa-vít. Vì đã không có từ Hy Lạp dành cho "con-theo-luật-pháp/con rể", Giô-sép đã được gọi là "con trai của Hê-li" bởi hôn nhân với Ma-ri, con gái của Hê-li. Qua hoặc dòng tộc của Ma-ri hoặc dòng tộc của Giô-sép, Chúa Giê-xu là hậu duệ của Đa-vít và do đó đủ tư cách là Đấng Mê-si. Truy một phả hệ qua phía người mẹ là không thông thường, nhưng sự sinh ra bởi trinh nữ Ma-ri cững vậy. Lời giải thích của Lu-ca là Chúa Giê-xu đã là con trai của Giô-sép, "theo ý người ta nghĩ" (Lu-ca 3:23).


© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 97. Sự liên hiệp bản thể là gì? Làm sao Chúa Giê-xu có thể vừa là Đức Chúa Trời vừa là con người cùng lúc được?

Trả lời: Sự liên hiệp bản thể là thuật ngữ được dùng để mô tả làm thế nào Đức Chúa Con, là Chúa Giê-xu Cơ Đốc, đã mang lấy bản chất con người, nhưng vẫn còn là Đức Chúa Trời hoàn toàn cùng một lúc. Chúa Giê-xu đã luôn luôn là Đức Chúa Trời (Giăng 8:58, 10:30), nhưng khi hiện thân Chúa Giê-xu đã trở thành một con người (Giăng 1:14). Sự cộng thêm bản chất con người vào bản chất là Chúa Giê-xu, Đấng Thần Nhân. Đây là sự liên hiệp bản thể, Chúa Giê-xu Cơ Đốc, một Con Người, Đức Chúa Trời hoàn toàn, và con người hoàn toàn.

Hai bản chất của Chúa Giê-xu, con người và thánh/ thần thượng, là không thể chia tách được. Chúa Giê-xu sẽ mãi mãi là Đấng Thần Nhân, Đức Chúa Trời hoàn toàn và con người hoàn toàn, hai bản chất riêng biệt trong một Con Người. Nhân tánh và thần tánh của Chúa Giê-xu là không pha trộn, nhưng được hiệp nhất mà không mất đi bản sắc riêng biệt. Đôi khi Chúa Giê-xu hoạt động với những giới hạn của nhân tánh/con người (Giăng 4:6, 19:28) và những lúc khác trong quyền năng của thần tánh của Ngài (Giăng 11:43; Ma-thi-ơ 14:18-21). Trong cả hai trường hợp, những hành động của Chúa Giê-xu đều từ một Con Người của Ngài. Chúa Giê-xu đã có hai bản tánh, nhưng chỉ có một con người/personality duy nhất.

Giáo lý về sự liên hiệp bản thể là một nỗ lực để giải thích làm thế nào Chúa Giê-xu đã có thể vừa là Đức Chúa Trời vừa là con người cùng lúc. Dầu vậy, rốt cuộc đó là một giáo lý mà chúng ta không có khả năng hiểu hoàn toàn. Thật bất khả thi cho chúng ta hiểu một cách trọn vẹn cách Đức Chúa Trời vận hành. Chúng ta, là những con người có tâm trí hữu hạn, không nên trông đợi sẽ lĩnh hội được hoàn toàn một Đức Chúa Trời vô hạn. Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời bởi vì Ngài đã được thai dựng bởi Đức Thánh Linh (Lu-ca 1:35). Nhưng điều đó không có nghĩa là Chúa Giê-xu đã không tồn tại trước khi Ngài được thai dựng. Chúa Giê-xu từ trước đến nay luôn hiện hữu (Giăng 8:58, 10:30). Khi Chúa Giê-xu được thai dựng, Ngài đã trở thành một con người ngoài việc là Đức Chúa Trời (Giăng 1:1, 14).

Chúa Giê-xu vừa là Đức Chúa Trời vừa là con người. Chúa Giê-xu từ trước đến nay luôn luôn là Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã không trở nên một con người cho tới khi Ngài được thai dựng trong Ma-ri. Chúa Giê-xu đã trở thành một con người để đồng cảm với chúng ta trong những sự tranh đấu của chúng ta (Hê-bơ-rơ 2:17) và, quan trọng hơn, để Ngài có thể chết trên thập tự giá để trả hình phạt cho những tội lỗi của chúng ta (Phi-líp 2:5-11). Tóm lại, sự liên hiệp bản thể dạy rằng Chúa Giê-xu vừa là con người trọn vẹn vừa là thần trọn vẹn, rằng không có sự pha trộn hay pha loãng/làm mất chất một bản tánh nào, và rằng Ngài là Con Người được hiệp nhất về hai bản tánh, đời đời.


© hoithanhkienbai.blogspot.com Ngu?n gotquestions.org

Câu 98. Chúa Giê-xu đã có vợ?

Trả lời: Chúa Giê-xu Cơ Đốc đã hoàn toàn không lập gia đình/ lấy vợ. Có những câu chuyện tưởng tượng phổ biến ngày nay nói rằng Chúa Cơ Đốc đã lấy Ma-ri Ma-đơ-len. Chuyện tưởng tượng này là tuyệt đối không có thật và không có cơ sở nào về mặt thần học, về mặt lịch sử hay về mặt Kinh Thánh. Trong khi một hai sách phúc âm Trí Huệ đề cập Chúa Giê-xu có một mối quan hệ gần gũi với Ma-ri Ma-đơ-len, không có sách nào trong chúng khẳng định một cách cụ thể rằng Chúa Giê-xu đã lấy Ma-ri Ma-đơ-len, hay có bất kỳ sự dính líu lãng mạn nào với bà. Chi tiết gần nhất trong những sách đó nói rằng Chúa Giê-xu đã hôn Ma-ri Ma-đơ-len, điều dễ dàng có thể đã chỉ đến một "cái hôn bạn bè". Hơn nữa, dẫu cho các sách phúc âm trí huệ đã khẳng định trực tiếp rằng Chúa Giê-xu đã lấy Ma-ri Ma-đơ-len, thì chúng không có thẩm quyền nào, vì các sách phúc âm trí huệ đó tất cả đều được minh chứng từ trước đến nay là những phúc âm giả mạo được hư cấu ra để tạo nên một cái nhìn Trí Huệ về Chúa Giê-xu.

Nếu Chúa Giê-xu đã lấy vợ, thì Kinh Thánh đã kể cho chúng ta như thế, hoặc sẽ có sự trình bày rõ ràng cho sự kiện đó. Kinh Thánh sẽ không hoàn toàn im lặng về một vấn đề quan trọng như thế. Kinh Thánh đề cập đến mẹ, cha nuôi, các em trai cùng mẹ khác cha và các em gái cùng mẹ khác cha của Chúa Giê-xu. Tại sao nó lại bỏ qua không đề cập đến sự kiện Chúa Giê-xu đã có một người vợ? Những ai tin/dạy rằng Chúa Giê-xu đã lấy vợ thì đang làm vậy trong một nỗ lực nhằm "con người hóa" Ngài, đến khiến Ngài trở nên tầm thường hơn, giống như mọi người khác hơn. Người ta đơn giản là không muốn tin rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời trong xác thịt (Giăng 1:1, 14; 10:30). Nên, họ hư cấu và tin những câu chuyện tưởng tượng/hoang đường về việc Chúa Giê-xu có vợ, có con, và là một con người bình thường.

Một câu hỏi phụ sẽ là "Chúa Giê-xu Cơ Đốc đã có thể lập gia đình được không?" Không có gì tội lỗi về việc lập gia đình. Không có gì tội lỗi về việc quan hệ tình dục trong hôn nhân. Do đó, phải, Chúa Giê-xu đã có thể lấy vợ và vẫn là Chiên Con vô tội của Đức Chúa Trời và Đấng Cứu Rỗi của thế gian. Cùng lúc đó, không có lý do hợp theo Kinh Thánh nào để Chúa Giê-xu lấy vợ. Đó không phải là điểm mấu chốt trong cuộc tranh cãi này. Những ai tin Chúa Giê-xu đã lấy vợ không tin rằng Ngài đã là vô tội, hoặc Ngài là Đấng Mê-si. Lấy vợ và có con không phải là lý do Đức Chúa Trời đã sai Chúa Giê-xu đến, “Vì thậm chí Con Người đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người. "


© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 99.Nếu Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, làm sao Ngài có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời? Có phải Chúa Giê-xu đã cầu nguyện với chính Ngài?

Trả lời: Để hiểu được Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời ở trần gian cầu nguyện với Cha của Ngài trên thiên đàng, chúng ta cần nhận ra rằng Cha đời đời và Con đời đời đã có mối quan hệ đời đời từ trước khi Chúa Giê-xu mang trên mình hình hài của một con người. Hãy cùng đọc Giăng 5:19-27, đặc biệt là câu 23 nơi mà Chúa Giê-xu dạy rằng Cha đã sai Con đến (cũng xem Giăng 15:10). Chúa Giê-xu không phải là trở thành Con của Đức Chúa Trời kể từ khi Ngài được hạ sinh tại Bết-lê-hem. Ngài luôn luôn là Con của Đức Chúa Trời từ trước vô cùng, bây giờ vẫn là Con của Đức Chúa Trời và mãi sẽ là như vậy.

Ê-sai 9:6 nói với chúng ta rằng Con Trai đã được ban cho, và Một Đứa Trẻ đã được sinh ra. Chúa Giê-xu luôn luôn là một phần của Ba Ngôi Hiệp Một. Ba Ngôi Hiệp Một đã luôn tồn tại, là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh, không phải ba đức chúa trời, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời tồn tại như 3 thân vị. Chúa Giê-xu đã dạy rằng Ngài và Cha của Ngài là một (Giăng 10:30), nghĩa là Ngài và Cha của Ngài là cùng một bản chất và cùng một đặc tính. Cha, Con và Thánh Linh chính là Đức Chúa Trời tồn tại qua ba thân vị bình đẳng. Cả ba đã và sẽ tiếp tục có một mối quan hệ đời đời.

Khi Chúa Giê-xu, là Con trai đời đời của Đức Chúa Trời, mang trên mình Ngài một nhân tính vô tội. Ngài cũng đặt mình là một người đầy tớ, từ bỏ thiên đàng vinh hiển của Ngài (Phi-líp 2:5-11). Là một Đức Chúa Trời-con người, Ngài đã phải học vâng phục (Hê-bơ-rơ 5:8) vào Cha của Ngài khi Ngài bị cám dỗ bởi Satan, bị buộc tội vô cớ bởi con người, bị khước từ bởi dân sự của Ngài, và cuối cùng bị đóng đinh. Lời cầu nguyện của Ngài với Cha trên thiên đàng là để cầu xin năng lực (Giăng 11:41-42) và khôn ngoan (Mác 1:35, 6:46). Lời cầu nguyện của Ngài cho thấy sự lệ thuộc của Ngài vào Cha trong nhân tính để thực hiện kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Cha, được minh chứng qua lời cầu nguyện như là một thầy tễ lễ của Chúa Giê-xu trong Giăng 17. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả sự quy phục cho đến cuối cùng vào ý muốn của Đức Chúa Trời, điều đã dẫn đến thập tự giá và trả hình phạt (sự chết) cho sự vi phạm của chúng ta vào luật lệ của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 26-31-46). Tất nhiên, thân thể Ngài đã sống lại từ ngôi mộ, giành được sự tha thứ và sự sống đời đời cho những ai ăn năn tội và tin vào Ngài là Cứu Chúa.

Không có vấn đề gì với Đức Chúa Trời là Con cầu nguyện và nói chuyện với Đức Chúa Trời là Cha. Như đã được đề cập, Ba Ngôi Hiệp Một đã có một mối liên hệ đời đời trước khi Đấng Christ trở thành con người. Mối liên hệ này được miêu tả trong những sách Phúc Âm rằng chúng ta có thể thấy cách mà Con của Đức Chúa Trời trong nhân tính của Ngài thực hiện theo ý muốn của Cha Ngài, và khi làm như vậy, chuộc lấy sự cứu chuộc cho con cái của Ngài (Giăng 6:38). Sự quy phục liên tục của Đấng Christ vào Cha thiên đàng đã được thêm năng quyền và được chú tâm thông qua đời sống cầu nguyện của Ngài. Lời cầu nguyện của Đấng Christ là một ví dụ để chúng ta làm theo.

Chúa Giê-xu Christ không phải là thiếu đi Đức Chúa Trời ở trên đất trong khi cầu nguyện với Cha của Ngài trên thiên đàng. Ngài đã miêu tả cách mà cho dù ở trong nhân tính vô tội, thì điều cần thiết vẫn là phải có một đời sống cầu nguyện thiết yếu để làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-xu với Cha là một minh chứng về mối liên hệ của Ngài trong Ba Ngôi và cũng là một ví dụ rằng chúng ta phải dựa vào Ngài thông qua lời cầu nguyện để có được sức mạnh và sự khôn ngoan mà chúng ta cần. Vì Đấng Christ, là Đức Chúa Trời-con người, cũng cần có một đời sống cầu nguyện mạnh mẽ, chính vì thế những người theo Chúa cũng nên làm như vậy.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 100.Chúa Giê-xu và Ma-ri có các anh chị em không?

Trả lời: Các em trai của Chúa Giê-xu được đề cập trong một vài câu Kinh Thánh. Ma-thi-ơ 12:46, Lu-ca 8:19, và Mác 3:31 nói rằng mẹ và các em trai của Ngài đã đến để gặp Ngài. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Chúa Giê-xu có bốn em trai: Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn, và Giu-đa (Ma-thi-ơ 13:55). Kinh Thánh cũng nói với chúng ta rằng Chúa Giê-xu có các em gái, nhưng họ không được kể tên và số lượng (Ma-thi-ơ 13:56). Trong Giăng 7:1-10, các em trai của Chúa đi dự lễ trong khi Chúa Giê-xu thì ở lại phía sau. Trong Công vụ 1:14, các em trai và mẹ của Ngài được miêu tả trong lúc cầu nguyện với các sứ đồ. Ga-la-ti 1:19 đề cập rằng Gia-cơ là em trai của Chúa Giê-xu. Kết luận tất nhiên nhất về những đoạn này là giải thích rằng Chúa Giê-xu thực sự có các em trai và em gái ruột thịt nửa dòng dõi huyết thống.

Một số người Công Giáo La Mã tuyên tố rằng “những em trai” này thực sự là em trai họ của Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp này thì từ ngữ Hy Lạp cụ thể cho “em trai” đã được sử dụng. Từ ngữ này cũng có thể ám chỉ tới những họ hàng khác, tuy nhiên nghĩa bình thường và nghĩa đen của nó vẫn mang ý nghĩa là em trai ruột. Cũng có từ ngữ Hy Lạp cho “em trai họ”, nhưng từ ngữ này đã không được dùng. Hơn nữa, nếu họ là các em trai họ của Chúa Giê-xu, thì tại sao họ thường xuyên được miêu tả là đi cùng với Ma-ri, là mẹ của Chúa Giê-xu? Không có điều gì nói lên trong ngữ cảnh về việc mẹ và các em trai đến gặp Ngài hay thậm chí gợi ý nào cho rằng họ là những em trai em gái họ hàng nào đó, ngoại trừ được hiểu theo nghĩa đen, các em trai ruột thịt nửa dòng máu huyết thống của Chúa.

Một lập luận thứ hai của Công Giáo La Mã cho rằng đây chính là các anh trai và chị gái của Chúa Giê-xu là con của Giô-sép từ một cuộc hôn nhân trước đó. Toàn bộ giả thuyết về việc Giô-sép lớn tuổi hơn nhiều so với Ma-ri, đã có một cuộc hôn nhân trước đó, có nhiều đứa con, và ở góa trước khi kết hôn với Ma-ri đã được sáng chế ra mà không dựa vào bất kỳ cơ sở Kinh Thánh nào. Vấn đề với lập luận này là Kinh Thánh thậm chí không đưa ra gợi ý nào về việc Giô-sép đã từng kết hôn hoặc có con trước khi cưới Ma-ri. Nếu Giô-sép có ít nhất sáu người con trước khi ông cưới Ma-ri thì tại sao họ không được nhắc đến trong cuộc hành trình của Giô-sép và Ma-ri đến Bết-lê-hem (Lu-ca 2:4-7) hoặc trong cuộc hành trình của họ đến Ai Cập (Ma-thi-ơ 2:13-15) hoặc cuộc hành trình của họ đến Na-xa-rét (Ma-thi-ơ 2:20-23)?

Không có một lý do ở trong Kinh Thánh để tin rằng những anh chị em này là những anh chị em họ hàng nào đó ngoại trừ được hiểu theo đó là con của Giô-sép và Ma-ri. Những người mà phản đối ý kiến Chúa Giê-xu có các anh chị em ruột thịt nửa dòng dõi huyết thống thì không phải từ việc đọc Kinh Thánh, nhưng xuất phát từ một quan niệm định kiến về sự đồng trinh trọn đời của bà Ma-ri, điều mà bản thân nó rõ ràng trái ngược với Kinh Thánh: “Tuy nhiên ông (Giô-sép) đã không ăn nằm với bà (Ma-ri) cho đến khi bà hạ sinh một bé trai. Và ông đặt tên Ngài là Giê-xu” (Ma-thi-ơ 1:25). Chúa Giê-xu có các em trai và em gái ruột thịt nửa dòng dõi huyết thống, họ là những người con của Giô-sép và Ma-ri. Đó là sự dạy dỗ rõ ràng và không mơ hồ của lời Đức Chúa Trời.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 101.Tại sao Chúa Giê-xu đã phải trải qua rất nhiều đau khổ?

Trả lời: Ê-sai 52:14 tuyên bố “Như bao kẻ đã ngạc nhiên khi trông thấy Người, vì mặt mày và hình dáng Người rất tiều tụy, trông chẳng ra người” (BD 2011). Chúa Giê-xu đã chịu đau khổ nặng nề nhất qua các cuộc xét xử, tra tấn, và đóng đinh (Ma-thi-ơ 27; Mác 15; Lu-ca 23; Giăng 19). Sự đau khổ của Ngài về thể xác rất là ghê rợn, nhưng điều đó chẳng là gì khi so sánh sự đau khổ thuộc linh mà Ngài đã trải qua. II Cô-rinh-tô 5:21 nói rằng: “Vì cớ chúng ta, Ðức Chúa Trời đã khiến Ðấng không biết tội lỗi thành người có tội, để nhờ ở trong Ngài, chúng ta trở nên những người công chính trước mặt Ðức Chúa Trời.” Chúa Giê-xu đã chất trên Ngài gánh nặng tội lỗi của cả thế gian (I Giăng 2:2). Đó là tội lỗi đã khiến Chúa Giê-xu kêu lên rằng “Đức Chúa Trời của con ôi! Đức Chúa Trời của con ôi! Sao Ngài lìa bỏ con?” (Ma-thi-ơ 27:46). Vậy, nỗi đau thể xác của Chúa Giê-xu thật là ghê sợ, tuy nhiên nó không là gì khi so sánh với những gì mà Ngài đã làm để mang lấy gánh nặng cho những tội lỗi và chết thay cho những vi phạm của chúng ta (Rô-ma 5:8).

Ê-sai tiên đoán rõ ràng về sự đau khổ của Chúa Giê-xu: “Người đã bị người ta khinh khi và ruồng bỏ, một người kinh nghiệm những đau thương sầu khổ và quen thuộc với ốm đau bệnh tật; Người giống như kẻ ai thấy đều che mặt chẳng muốn nhìn. Người đã bị người đời kinh khi hất hủi, và chúng ta cũng chẳng coi Người ra gì. Nhưng Người đã vì những vi phạm của chúng ta mà bị đánh trọng thương, vì những tội lỗi của chúng ta mà bị tan da nát thịt. Nhờ hình phạt Người chịu chúng ta được bình an; nhờ những thương tích Người mang, chúng ta được chữa lành” (Ê-sai 53:3, 5). Thi-thiên 22:14-18 là phân đoạn đầy quyền năng khác tiên đoán về sự đau khổ của Đấng Mê-si: “Mạng sống con bị đổ ra như nước, các xương con rời khớp, tim con mềm nhũn như sáp và tan chảy trong lòng con. Sức lực con khô khan như một miếng sành, lưỡi con dính chặt vào cuống họng; thật Ngài đã để con nếm trải bụi tử vong. Một bầy chó bao quanh con; một bọn người hung ác vây lấy con; chúng đâm thủng hai tay và hai chân con. Con có thể đếm được các xương của mình; chúng nhìn con; chúng ngắm con; chúng chia nhau y phục của con; còn áo dài của con, chúng bắt thăm nhau lấy”.

Tại sao Ngài đã phải chịu đau khổ cùng cực? Một số người nghĩ rằng sự tra tấn thể xác của Chúa Giê-xu là một phần hình phạt mà Ngài chịu thay cho những tội lỗi của chúng ta. Ở một mức độ nào đó, điều này là đúng. Đồng thời, sự tra tấn mà Chúa Giê-xu đã trải qua nói nhiều về sự hận thù và gian ác của nhân loại hơn là về sự hình phạt của Đức Chúa Trời đã định cho Chúa Giê-xu để chịu thay cho tội lỗi. Sự hận thù hoàn toàn của Satan đối với Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu chắc chắn là một phần động cơ đằng sau sự tra tấn tàn nhẫn và sỉ nhục. Sự đau khổ chồng chất trên Chúa Giê-xu là một ví dụ điển hình của sự hận thù và giận dữ mà con người tội lỗi cảm nhận về một Đức Chúa Trời thánh khiết (Rô-ma 3:10-18)

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 102.Khi nói Chúa Giê-xu là Chiên con của Đức Chúa Trời có nghĩa là gì?

Trả lời: Khi Chúa Giê-xu được gọi là Chiên con của Đức Chúa trời trong Giăng 1:29 and Giăng 1:36, Ngài được nói đến như một của lễ chuộc tội hoàn hảo và trọn vẹn. Để hiểu được Chúa Giê-xu là ai và những gì Ngài đã làm, chúng ta phải bắt đầu với Cựu ước, quyển sách chứa đựng những tiên tri về việc đến thế gian của Chúa Giê-xu như một “tế lễ chuộc tội” (I-sai-a 53:10). Trên thực tế, toàn bộ hệ thống tế lễ được lập nên bởi Đức Chúa Trời trong Cựu ước là tiền đề cho sự đến thế gian của Đức Chúa Giê-xu, người là của lễ hoàn hảo mà Đức Chúa trời ban cho để chuộc cho tội lỗi của con dân Ngài (Rô-ma 8:3, Hê-bơ-rơ 10).

Tế lễ dùng Chiên con đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tôn giáo của dân Do Thái cũng như trong hệ thống tế lễ của họ. Khi Giăng Báp-tít nói về Chúa như là “Chiên Con của Ðức Chúa Trời, Ðấng cất đi tội lỗi của thế gian” (Giăng 1:29), những người Do thái nghe thấy lời chứng đó có thể đã nghĩ ngay đến một trong những tế lễ quan trọng. Khi kỳ lễ Vượt qua đến rất gần, ý nghĩ đầu tiên trong họ có thể là việc tế lễ những con chiên dành cho kỳ lễ. Kỳ lễ vượt qua là một trong những ngày lễ chính của dân Do thái và là dịp kỷ niệm để hồi tưởng lại sự giải cứu của Chúa cho dân Ít-ra-en khỏi xiềng xích của Ai-cập. Trên thực thế, việc giết những con chiên của kỳ lễ Vượt qua và việc bôi máu lên trụ cửa ở từng nhà (Xuất hành 12:11-13) là một hình tượng đẹp đẽ của sự cứu chuộc của Đấng Christ trên thập tự giá. Những ai đón nhận cái chết của Ngài sẽ được huyết của Ngài bao bọc, bảo vệ khỏi thiên sứ của cái chết (về mặt thuộc linh).

Một tế lễ quan trọng khác có sinh tế chiên con là các tế lễ hàng ngày trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Mỗi sáng và chiều, một con chiên con được cúng tế tại đền thờ cho tội lỗi của tất cả mọi người (Xuất hành 29:38-42). Nhũng tế lễ hàng ngày này, giống như các tế lễ khác, đơn thuần để hướng mọi người tới tế lễ không tì vết của đấng Christ trên thập tự giá. Trên thực tế, khoảng thời gian cái chết của Chúa Giê-xu trên cây thập tự giá tương ứng với khoảng thời gian tế lễ buổi chiều được thực hiện trong đền thờ. Người Do thái thời đó cũng khá quen thuộc với những tiên tri của Giê-rê-mi và I-sai-a trong Cựu ước, dự báo về Người sẽ đến để bị “như chiên bị dắt đến chỗ làm thịt” (Giê-rê-mi 11:19, I-sai-a 53:7) và những đau đớn và hy sinh của Người sẽ đem lại sự cứu chuộc cho dân Ít-ra-en. Tất nhiên, người đó không phải ai khác ngoài Chúa Giê-xu, “Chiên con của Đức Chúa Trời”.

Nếu ý niệm của hệ thống tế lễ có thể xa lạ với chúng ta ngày hôm nay, chúng ta dễ dàng có thể hiểu được những khái niệm về sự bồi thường hay sự hoàn trả. Chúng ta biết rằng tiền công của tội lỗi là sự chết (Rô-ma 6:23) và rằng tội lỗi tách biệt chúng ta khỏi Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng biết rằng Kinh thánh dạy chúng ta đều là những tội nhân và không ai trong chúng ta là công chính trước Chúa (Rô-ma 3:22). Bởi tội lỗi của chúng ta, chúng ta bị tách biệt khỏi Đức Chúa Trời, và chúng ta bị kể là có tội trước mặt Ngài. Bởi thế, hy vọng duy nhất chúng ta có thể có được là khi Ngài ban cho chúng ta một con đường để hòa giải với Ngài, và đó là khi Ngài ban con một của chính Ngài là Đức Chúa Giê-xu để chết trên thập tự. Đấng Christ đã chết để làm giá chuộc cho những ai tin nơi Ngài.

Chính qua cái chết của Ngài trên thập giá như tế lễ chuộc tội không tì vết của Đức Chúa Trời và sự sống lại của Ngài ba ngày sau đó mà chúng ta có thể có được sự sống đời đời nếu chúng ta tin nơi Ngài. Việc Chúa đã ban cho chúng ta một của lễ để chuộc tội lỗi chúng ta là một phần của tin mừng của Phúc âm được nói rõ trong 1 Phi-e-rơ 1:18-21: “Anh chị em được cứu chuộc, không phải bằng thứ có thể hư nát như vàng hay bạc, nhưng là bằng chính huyết quí báu của Chúa Cứu Thế, một chiên con tinh sạch hoàn toàn. Chúa Cứu Thế đã được chọn từ trước khi sáng thế nhưng vì anh chị em mà Ngài được tỏ ra cho thế gian vào các thời kỳ cuối cùng nầy. Nhờ Chúa Cứu Thế, anh chị em tin nhận Thượng Đế, là Đấng khiến Ngài sống lại từ kẻ chết và ban cho Ngài sự vinh hiển. Vì thế đức tin và hi vọng anh chị em được đặt trong Thượng Đế.”

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 103.Nơi đâu trong Cựu Ước dự báo về sự xuất hiện của Đấng Christ?

Trả lời: Có rất nhiều tiên tri Cựu Ước nói về Chúa Giê-xu Christ. Một số nhà giải kinh xếp được hàng trăm tiên tri về Đấng Mê-si-a. Các tiên tri sau đây được coi là rõ ràng và quan trọng nhất.

Nói đến sự ra đời của Chúa Giê-xu – I-sai-a 7:14: “Vì vậy chính CHÚA sẽ ban cho các người một dấu hiệu: Nầy, một trinh nữ sẽ thụ thai. Nàng sẽ sinh một con trai và đặt tên con trai đó là EM-MA-NU-ÊN.” I-sai-a 9:6: “Vì sẽ có một Con Trẻ sinh cho chúng ta, Một Con Trai ban cho chúng ta; Quyền trị vì sẽ đặt trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Ðấng Mưu Luận Lạ Lùng, Ðức Chúa Trời Quyền Năng, Cha Ðời Ðời, Chúa Bình An.” Mi-ca 5:2: “Này ngươi, hỡi Bết-lê-hem ở Ép-ra-tha, Dù ngươi nhỏ bé không ra gì giữa các thị tộc của Giu-đa, Nhưng từ ngươi sẽ ra cho Ta một người, Một người sẽ trị vì trên I-sơ-ra-ên. Gốc gác của Người đã có từ ngàn xưa, từ vô cực trong quá khứ.”

Về mục vụ và cái chết của Chúa Giê-xu, Xa-cha-ri 9:9 :” Hỡi Ái Nữ của Si-ôn, hãy nức lòng mừng rỡ; Hỡi Ái Nữ của Giê-ru-sa-lem, hãy cất tiếng reo hò. Này, Vua của ngươi đến với ngươi; Ngài thật công chính và mang đến ơn cứu rỗi; Ngài khiêm nhu và cỡi trên một con lừa, Cỡi trên lưng một con lừa tơ, là con của lừa mẹ.” Thi Thiên 22:16-18: “Vì đàn chó bao quanh tôi,Lũ người hung dữ vây phủ tôi, Chúng đâm thủng(l)chân tay tôi. Tôi có thể đếm hết xương cốt tôi, Chúng nhìn chòng chọc, chúng nhìn tôi hau háu. Chúng chia nhau áo xống tôi, Bắt thăm để lấy y phục tôi” (BDM).

Có thể nói các tiên tri rõ ràng nhất về Chúa Giê-su là trọn vẹn chương 53 của sách I-sai-a. Đặc biệt không thể bị nhầm lẫn là I-sai-a 53:3-7: “Người đã bị người ta khinh khi và ruồng bỏ, Một người kinh nghiệm những đau thương sầu khổ và quen thuộc với ốm đau bịnh tật; Người giống như kẻ ai thấy đều che mặt chẳng muốn nhìn. Người đã bị người đời khinh khi hất hủi, Và chúng ta cũng chẳng coi Người ra gì. Mà kỳ thật chính Người đã mang lấy những ốm đau bịnh tật của chúng ta; Người đã mang lấy những đau thương sầu khổ của chúng ta, Trong khi chúng ta lại tưởng Người đã bị Ðức Chúa Trời đánh phạt, giáng họa, và làm cho khốn khổ. Nhưng Người đã vì những vi phạm của chúng ta mà bị đánh trọng thương, Vì những tội lỗi của chúng ta mà bị tan da nát thịt. Nhờ hình phạt Người chịu, chúng ta được bình an; Nhờ những thương tích Người mang, chúng ta được chữa lành. Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; CHÚA đã chất tội lỗi của tất cả chúng ta trên Người. Người đã bị bức hiếp và hành hạ đau đớn, Nhưng Người chẳng hề mở miệng than van. Như chiên con bị đưa đi làm thịt, Như con chiên im lặng trước mặt thợ hớt lông, Người chẳng hề mở miệng.”

Tiên tri về “bảy mươi tuần” trong chương 9 Đa-ni-ên tiên đoán chính xác về ngày mà Chúa Giê-xu, Đấng Mê-sai, bị “trừ đi”. I-sai-a 50:6 miêu tả chính xác về đòn roi mà Chúa Giê-xu phải chịu. Xa-cha-ri-a 12:10 dự đoán “những nhát đâm” của Đấng Mê-si-a, xảy ra sau khi Chúa Giê-xu chết trên cây thập tự. Rất nhiều những ví dụ khác có thể được đưa ra, tuy nhiên những ví dụ này được coi là đủ. Kinh thánh Cựu Ước định rất rõ về sự xuất hiện của Chúa Giê-xu như Đấng Mê-si-a (nghĩa là Đấng Chịu Xức Dấu).

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 104.Giê-xu là con người có nghĩa là gì?

Trả lời: Chúa Giê-xu được nhắc đến như “Con Người” 88 lần trong Tân Ước. Nghĩa đầu tiên của cụm từ “Con Người ” được nhắc đến trong tiên tri Đa-ni-ên 7:13-14, “Ban đêm tôi thấy trong các khải tượng: Kìa, một Ðấng giống như Con Người ngự trên mây trời đến. Ngài đến trước mặt Ðấng Thái Cổ (Thượng Cổ), Và được đưa ra trình diện trước Ðấng ấy. Ngài được ban cho quyền trị vì, vinh hiển, và vương quyền, để mọi dân tộc, mọi quốc gia, và mọi ngữ tộc phải phục vụ Ngài. Quyền trị vì của Ngài là quyền trị vì đời đời, không bao giờ qua đi; Vương quyền của Ngài là vương quyền không bao giờ bị hủy bỏ.” “Con Người” được miêu tả như danh hiệu của Đấng Mê-si-a. Chúa Giê-xu là Người được ban cho quyền trị vì và vinh hiển và vương quyền. Khi Chúa Giê-xu nói đến cụm từ đó, Ngài đã dùng các tiên tri về Con Người cho chính mình. Người Do Thái vào thời kỳ đó rất quen thuộc với cụm từ này và ý nghĩa của nó. Chúa Giê-xu đã rao báo về Ngài như Đấng Mê-si-a.

Nghĩa thứ 2 của cụm từ “Con Người” là việc Chúa Giê-xu thật sự là một con người xác thịt. Đức Chúa trời gọi tiên tri Ê-xê-ki-ên là “con người” 93 lần. Đức Chúa Trời đơn thuần muốn gọi Ê-xê-ki-ên như một con người xác thịt. Một con người trước hết là một người cá thể. Chúa Giê-xu hoàn toàn là thần (Giăng 1:1), nhưng Ngài cũng đồng thời là một con người xác thịt (Giăng 1:14). 1 Giăng 4:2 nói cho chúng ta biết, “Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời.” Đúng vậy, Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa trời, Ngài có Thần tính của Đức Chúa Trời. Nhưng cùng lúc đó, Ngài là một con người – Ngài mang trong mình bản thể con người.

Nói tóm lại, cụm từ “Con Người” muốn nói tới Chúa Giê-xu như Đấng Mê-si-a và rằng Ngài là môt con người thật sự.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 105.Tại sao Đức Chúa Trời gửi Chúa Giê xu vào thời điểm đó? Sao không sớm hơn? Sao không muộn hơn?

Trả lời: “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến, do một người nữ sinh ra, sinh ra dưới luật pháp “ (Ga-la-ti 4:4 theo bản dịch hiệu đính). Câu này tuyên bố rằng Đức Chúa Trời Ngôi Cha đã gửi Con Ngài khi “kỳ hạn đã được trọn.” Có nhiều thứ xảy đến trong thế kỷ đầu tiên, mà ít ra theo suy luận loài người, có vẻ như làm nên sự hợp thời cho Chúa Giê-xu đến.

1) Có một sự trông đợi lớn giữa vòng những người Do Thái trong thời kỳ đó rằng Đấng Christ sẽ đến. Sự thống trị của đế chế La Mã lên người Do Thái làm cho người Do Thái khát khao thấy Đấng Christ đến.

2) Đế chế La mã đã tụ hộp phần lớn thế giới dưới chính quyền của nó, làm cho nhiều vùng cảm thấy sự hiệp nhất. Và nữa, vì đế chế lúc đó tương đối là an bình, có thể đi lại, điều này cho phép những người Cơ Đốc thời kỳ đầu giao truyền Phúc Âm. Sự tự do đi lại đó có lẽ là không thể trong những thời kỳ khác.

3) Khi đế chế La Mã đã chinh phục bằng quân sự, Hy Lạp đã chinh phục bằng văn hóa. Một dạng ngôn ngữ Hy Lạp thông dụng (khác với ngôn ngữ Hy Lạp cổ) là ngôn ngữ thương mại và được sử dụng trong cả đế chế, làm cho việc giao truyền Phúc Âm cho nhiều nhóm người thông qua một ngôn ngữ.

4) Việc nhiều thần tượng giả đã thất bại trong việc giúp họ chiến thắng những kẻ xâm lăng La Mã đã làm cho nhiều người bỏ việc thờ những thần đó. Trong khi đó, trong những thành phố mà có “văn hóa” hơn, triết học Hy Lạp và khoa học trong thời kỳ đó làm cho số khác lại trống trải trong tâm linh giống như sự vô thần của những chính phủ cộng sản đã để lại khoảng trống tâm linh ngày nay.

5) Những tôn giáo huyền nhiệm trong thời kỳ này tập trung vào một vị chúa cứu tinh và yêu cầu những người thờ phượng phải dâng những sinh tế có máu, vì thế làm cho Phúc Âm của Đấng Christ với sự hy sinh cuối cùng/thiết yếu dễ tin cho họ. Những người Hy Lạp cũng tin vào sự sống đời đời của tâm hồn (nhưng thân thể thì không).

6) Quân đội La Mã đã tuyển mộ lính từ các tỉnh và giới thiệu những chàng trai này văn hóa La Mã và những ý tưởng (ví dụ như Phúc Âm) mà chưa đến với những tỉnh nằm xa. Lần sớm nhất Phúc Âm được đưa vào nước Anh là kết quả của những nỗ lực của những người lính Cơ Đốc đóng quân tại đó.

7) Những câu ở trên dựa vào những người xem xét thời kỳ đó và đưa ra những phỏng đoán tại sao thời kỳ đó trong lịch sử lại là thời kỳ tốt để Đấng Christ đến. Nhưng chúng ta hiểu rằng ý tưởng của Chúa không phải là ý tưởng của chúng ta. (Ê-sai 55:8), và những điều đó có thể hoặc không phải là một vài lý do mà Chúa chọn thời điểm để gửi Con Ngài đến. Từ ngữ cảnh của Ga-la-ti 3 và 4, ta thấy rõ rằng Chúa đang tìm cách đặt nền móng dựa trên Luật Do Thái để chuẩn bị cho sự giáng lâm của Đấng Christ. Luật pháp là được dùng để giúp cho con người hiểu về chiều sâu của sự tội lỗi của họ (rằng họ không thể nào làm theo luật pháp được) để rồi họ có thể dễ dàng nhận sự chữa lành cho tội lỗi qua Chúa Giê-xu là Đấng Christ (Ga-la-ti 3:22-23; Ro-ma 3:19-20). Luật pháp cũng được “giao quyền” (Ga-la-ti 3:24) để dẫn con người tới Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Điều này là nhờ vào nhiều lời tiên tri trong luật pháp chỉ về Đấng Christ mà Chúa Giê-xu đã làm trọn. Thêm vào đó, hệ thống dâng sinh tế chỉ tới một nhu cầu cho việc dâng sinh tế thay cho tội lỗi và cả sự không thỏa đáng của chính nó nữa (với mỗi sinh tế luôn cần có những sinh tế thêm vào sau này nữa). Lịch sử Cựu Ước cũng vẽ lên những bức tranh về con người và công việc của Đấng Christ qua một vài sự kiện và những ngày lễ tôn giáo (ví dụ như sự sẵn lòng của Abraham trong việc dâng con I-sắc, hoặc chi tiết về ngày lễ Vượt Qua trong quá trình xuất hành ra khỏi Ai Cập, vân vân).

Cuối cùng, Đấng Christ đến lúc đó để làm trọn một tiên tri cụ thể. Đa-ni-ên 9:24-27 nói về “bảy mươi tuần” hoặc bảy mươi lần “bảy.” Theo ngữ cảnh, những tuần này hoặc “bảy” này chỉ về từng cụm bảy năm, chứ không phải bảy ngày. Chúng ta có thể nghiên cứu lịch sử và vạch ra chi tiết những dữ kiện của sáu mươi chin tuần đầu (tuần thứ bảy mươi sẽ xảy ra trong một thời điểm trong tương lai). Sự đếm ngược của bảy mươi tuần bắt đầu từ việc “lệnh phục hồi và xây lại Giê-ru-sa-lem” (câu 25). Lệnh này được ban bởi vua Artaxerxes Longimanus 445 trước Công Nguyên. (Xem Nê-hê-mi 2:5). Sau bảy lần “bảy” cộng với sáu mươi hai lần “bảy” hay là 69x7 năm, lời tiên tri nói rằng, “Đấng Chịu Xức Dầu sẽ bị trừ đi và sẽ không có gì cả. Quân đội của một thủ lĩnh sắp đến sẽ hủy phá thành và đền thánh” và “sự cuối cùng sẽ đến như nước lụt” (Có nghĩa là một sự hủy diệt lớn) (Câu 26). Ở đây chúng ta có một sự ám chỉ không thể lẫn đi đâu được về sự chết của Đấng Cứu Thế trên cây thập tự. Một thế kỷ trước trong cuốn sách “Đấng sẽ đến” (tạm dịch từ The Coming Prince), Ngài Robert Anderson đưa ra những phép tính chi tiết về sáu mươi chín tuần sử dụng những “năm tiên tri” với sự để tâm tới những năm nhuận, sai sót trong lịch, sự thay đổi từ trước Công Nguyên sang sau Công Nguyên, vân vân…, và đã tìm ra rằng sáu mươi chín tuần dừng lại đúng vào ngày Chúa Giê-xu tiến vào Giê-ru-sa-lem (Ma-thi-ờ 21:1vv), năm ngày trước khi Chúa chết. Liệu ai đó dùng lịch trình thời gian này hay không, điều cốt yếu là thời điểm Chúa Giê-xu giáng lâm khớp với lời tiên tri chi tiết được tiên tri Đa-ni-ên ghi chép lại hơn 500 năm trước đó.

Thời điểm Đấng Christ hiện thân là thời điểm mà con người ở thời điểm đó được chuẩn bị cho sự giáng lâm của Ngài. Mọi người trong các thế kỷ từ thời điểm đó có đầy đủ chứng cớ rằng Chúa Giê-xu thực sự là Đấng Christ được hứa trước qua những gì Chúa đã làm trọn Lời Thánh Kinh, Lời mà đã phác họa lên và tiên tri về sự giáng lâm của Ngài một cách rất chi tiêt.

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org

Câu 106. Tại sao tôi cần tin vào sự phục sinh của Đấng Christ?

Trả lời: Sự kiện Chúa Giê-xu đã bị hành hình trước công chúng ở sứ Giu-đê vào thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên dưới quyền Pontius Pilate bằng phương thức treo trên thập giá đã được xác nhận khá chắc chắn theo sự yêu cầu của Tòa Án Do Thái tối cao. Những báo cáo lịch sử không thiên về Cơ Đốc giáo của Flavius Josephus, Cornelius Tacitus, Lucian ở Samosata, Maimodes và thậm chí tòa án Do Thái tối cao cùng củng cố những bản ghi chép làm chứng của Cơ Đốc giáo trong thời kỳ đầu về những khía cạnh lịch sử quan trong đã nêu về cái chết của Chúa Giê-xu Christ.

Còn về sự phục sinh của Chúa, có những dòng chứng cớ mà cho ra lý lẽ chứng cớ thuyết phục. Cố thần đồng luật học và cũng là một chính khách quốc tế, Ngài Lionel Luckhoo (theo Cuốn sách Guiness về các kỷ lục thế giới, ông nổi tiếng vì kỷ lục chưa từng có là 245 lần liên tiếp bảo vệ để trắng án những phiên xét xử giết người) tóm tắt được sự nhiệt tình và tự tin về chứng cớ mạnh mẽ về sự phục sinh khi ông viết, “Tôi đã dành hơn 42 năm làm việc như một luật sư biện hộ có mặt ở nhiều vùng trên thế giới và vẫn còn tích cực hành nghề. Tôi đã may mắn có được những thành công trong những vụ xét xử bồi thẩm và tôi tuyên bố không chút do dự rằng bằng chứng về sự phục sinh của Đấng Christ là quá đỗi mạnh mà đến nỗi buộc phải chấp nhận bằng chứng mà không còn chỗ cho sự hoài nghi nữa.

Sự đáp trả của cộng đồng thế tục về những chứng cớ đó thì dễ hiểu là thờ ơ theo đúng như sự trung thành kiên định với chủ nghĩa tự nhiên theo phương pháp luận. Với những ai không quen với thuật ngữ này, chủ nghĩa tự nhiên theo phương pháp luận là nỗ lực loài người cố gắng giải thích tất cả mọi thứ dựa trên những nguyên nhân tự nhiên và chỉ những nguyên nhân tự nhiên mà thôi. Nếu một sự kiện lịch sử được khẳng định mà đi ngược với lời giải thích tự nhiên (ví dụ như sự phục sinh màu nhiệm), những nhà học giả thế tục thường nhìn nó với sự nghi ngờ lớn, không màng tới bằng chứng, dù nó có lợi và thuyết phục đến mấy.

Theo ý chúng tôi, lòng trung thành không lung lay với những nguyên nhân tự nhiên cho dù có những bằng chứng mạnh mẽ nghịch lại là không thuận lợi một cuộc điều tra nghiên cứu khách quan (và như vậy thỏa đáng) về những bằng chứng. Chúng tôi đồng ý với tiến sĩ Werner von Braun và vô số những người khác, những người tin rằng ép buộc chấp nhận một thiên hướng triết lý đang nổi khi nghiên cứu bằng chứng ngăn cản sự khách quan. Hoặc theo chính tiến sĩ von Braun, “Bị ép phải tin vào một kêt luận mà thôi… sẽ vi phạm sự khách quan của bản thân ngành khoa học.”

Nói như vậy, hãy để chúng tôi xem xét vài dòng chứng cớ mà bảo vệ sự phục sinh.

Dòng chứng cớ đầu tiên cho sự phục sinh của Đấng Christ.
Để bắt đầu, chúng ta có lời chứng của nhân chứng thành thật. Những nhà biện giải Cơ Đốc trích dẫn hàng trăm nhân chứng, trong đó có vài người ghi chép lại trải nghiệm được cho là của chính họ. Nhiều trong số những nhân chứng này ý thức rõ và kiên cường chịu đựng sự tra tấn kéo dài và cái chết thay vì từ bỏ lời chứng của họ. Sự kiện này chứng nhận sự thành thật của họ và loại trừ khả năng giả dối từ phía họ. Theo ghi chép lịch sử (Sách Công Vụ các sứ đồ 4:1-17; Những lá thư của Pliny gửi Trajan X, 96, vân vân) hầu hết các Cơ Đốc nhân có thể dừng sự đau đớn đơn giản bằng cách từ bỏ đức tin. Thay vào đó, có vẻ như hầu hết chọn sự chịu đựng đau đớn và tuyên bố Đấng Christ phục sinh cho tới chết. Cho là như vậy, trong khi tử vì đạo là đáng chú ý, nhưng nó không nhất thiết là thuyết phục. Nó không giúp xác nhận một đức tin như là nó giúp xác nhận một tín đồ (bằng cách thể hiện sự thành thật của anh ta hay cô ta theo một cách cụ thể). Điều mà làm cho những người tử vì đạo Cơ Đốc trong thời kỳ đầu đáng chú ý là họ biết liệu điều họ tuyên bố là sự thật hay không. Họ có thể thấy Chúa Giê-xu Christ sống và sống khỏe mạnh sau khi Chúa đã chết hoặc là không thấy. Điều này thật khác thường. Nếu nó tất cả chỉ là sự lừa dối, tại sao nhiều người cứ lưu truyền nó mãi bất chấp hoàn cảnh của họ? Tại sao họ chủ tâm bám lấy một lời nói dối không mang lại lợi lộc gì trong khi đối mặt với sự bắt bớ, bỏ tù, tra tấn và cái chết?

Trong sự việc 11 tháng 9 năm 2001, không nghi ngờ gì rằng những người bắt cóc máy bay tự sát tin điều họ tuyên bố (như họ đã tỏ ra bằng việc sãn lòng chết vì nó), nhưng họ không thể và đã không biết liệu nó có thật hay không. Họ đặt niềm tin vào truyền thống được truyền cho họ qua nhiều thế hệ. Ngược lại, những người Cơ Đốc tử vì đạo trong thời kỳ đầu lại là những người thuộc thế hệ đầu. Hoặc là họ đã thấy điều mà họ cho rằng đã thấy, hoặc họ đã không thấy.

Trong những nhân chứng đã tuyên bố nổi tiếng nhất là các Sứ Đồ. Họ cùng nhau trải qua một sự thay đổi không thể bàn cãi sau những sự xuất hiện được cho là hậu phục sinh của Đấng Christ. Ngay sau sự đóng đinh trên thập tự của Ngài, họ đã ẩn nấp trong nỗi sợ hãi cho sự sống của họ. Sau phục sinh, họ đã ra đường, mạnh dạn tuyên bố sự phục sinh mặc dù sự chống đối gia tăng. Điều gì khiến cho họ thay đổi đột ngột và mạnh mẽ vậy? Nó hẳn không phải là vì lợi lộc tiền tài. Các sứ đồ đã bỏ hết mọi sự, cả mạng sống họ, họ có để giảng về sự phục sinh.

Dòng chứng cớ thứ hai về sự phục sinh của Đấng Christ
Dòng chứng cớ thứ hai liên quan đến sự cải đạo của những nhân vật hoài nghi chủ chốt, đáng kể nhất” là Phao-lô và Gia-cơ. Chính Phao-lô nhận mình là một người bắt bớ Hội Thánh trong thời kỳ đầu cách dữ dội. Sau khi ông, theo ông miêu tả, được gặp Đấng Christ phục sinh, Phao-lô đã trải qua một sự thay đổi ngay lập tức và mãnh liệt từ một người bắt bớ Hội Thánh xấu xa thành một trong những người biện hộ có kết quả và quên mình. Giống như nhiều Cơ Đốc nhân trong thời kỳ đầu, Phao-lô chịu đựng sự đói khổ, bắt bớ, đánh đập, bỏ tù và hành hình vì sự trung thành kiên định với sự phục sinh của Đấng Christ.

Gia-cơ thì đa nghi, nhưng không quá thù địch như là Phao-lô. Cuộc gặp gỡ với Đấng Christ sau phục sinh mà được ông công khai đã biến ông thành một tín đồ có một không hai, thành một lãnh đạo Hội Thánh ở Jerusalem. Chúng ta vẫn có một trong những lá thư của ông mà các nhà học giả trên tinh thần chung cho là gửi tới Hội Thánh trong thời kỳ đâu. Giống như Phao-lô, Gia-cơ sẵn lòng chịu đựng và chết vì lời chứng của mình, một dữ kiện mà chứng thực sự chân thật của đức tin của ông (coi sách Công Vụ Các Sứ Đồ và Đời Cổ Xưa của người Do Thái của Josephus XX, ix, 1).

Dòng chứng cớ thứ ba và thứ tư về sự phục sinh của Đấng Christ
Dòng chứng cớ thứ ba và thứ tư liên quan đến sự chứng thực của những kẻ thủ về ngôi mộ trống và dữ kiện rằng đức tin về sự phục sinh bắt nguồn từ Giê-ru-sa-lem. Chúa Giê-xu bị hành hình trước công chúng và được chôn ở Giê-ru-sa-lem. Không thể nào mà niềm tin về sự phục sinh của Chúa lại bắt nguồn từ Giê-ru-sa-lem khi mà xác Ngài vẫn đang trong ngôi mộ nơi mà Tòa án tối cao Do Thái có thể khai quật nó, đưa nó lên cho công chúng coi, và qua đó chứng tỏ đó là sự bịp bợm. Thay vào đó, tòa án tối cao Do Thái lại đổ tội cho các sứ đồ ăn trộm xác, hiển nhiên là họ đang nỗ lực giải thích sự biến mất của xác (và vì thế có ngôi mộ trống). Chúng ta giải thích dữ kiện ngôi mộ trống ra sao? Đây là ba lời giải thích thông thường nhất:

Thứ nhất, các môn đồ ăn cắp xác. Nếu điều này thật, họ đã biết rằng phục sinh là sự bịp bợm. Họ nếu thế thì đã không sẵn lòng chịu đau khổ và chết vì nó. (Coi lại dòng chứng cớ đầu tiên mà đề cập đến sự làm chứng chân thật của các nhân chứng đã thể hiện.) Tất cả những nhân chứng đã tuyên bố hẳn phải biết rằng họ đã không thấy Đấng Christ và vì thế là đã nói dối. Với nhiều người tham gia vào âm mưu như vậy, chắc hẳn ai đó đã đầu thú, nếu không phải là để chấm dứt sự đau khổ của cá nhân anh ta thì ít ra cũng là chấm dứt sự đau khổ của gia đình và bạn bè anh ta. Thế hệ Cơ Đốc nhân đầu tiên đã bị hoàn toàn tra tấn dã man, đặc biệt sau hỏa hoạn ở thành Rô-ma vào năm 64 sau công nguyên (một cuộc hỏa hoạn được cho là do Nero yêu cầu để mở rộng cung điện của ông ta, nhưng ông ta lại đổ tội cho Cơ Đốc nhân trong thành Rô-ma trong quá trình muốn bào chữa cho ông ta). Một sử gia La Mã, Cornelius Tacitus, thuật lại chi tiết trong Biên Niên Đế Chế Rô-ma (xuất bản chỉ một thế hệ sau hỏa hoạn đó).

“Nero đổ tội và giáng những sự tra tấn thấm thía nhất lên một loại người bị ghét bỏ vì sự ghê tởm của họ, được gọi là Cơ Đốc nhân bởi quần chúng. Christus, người mà từ đó là nguồn gốc của tên nhóm người đó, đã chịu một án phạt khinh khủng nhất trong thời cai trị của Tiberius dưới tay của một trong những người đại diện của chúng ta, Pontius Pilatus, và một sự mê tín rất có hại, nên bị kiểm soát một thời gian ngắn, rồi lại bùng nổ không chỉ trong xứ Giu-đê, nơi nguồn cội của sự gian ác này, nhưng thậm chí ở Rô-ma, nơi mà mọi sự gớm giếc và đáng xấu hổ có mặt trên khắp đất lấy nơi đó là tâm điểm và rồi từ đó trở nên nổi tiếng.

Do đó, sự bắt giữ, đầu tiên, là dành cho những người bị kết tội; rồi, dựa trên thông tin của họ, một lượng rất lớn bị kết án, không hẳn vì tội đốt thành phố, mà là tội ghét bỏ nhân loại. Sự mỉa mai đủ thể loại hình thức được thêm vào với sự chết của họ. Đắp bởi nhưng bộ da thú, họ bị xé ra bởi chó và chết, hoặc bị đóng đinh trên thập tự, hoặc bị phải chịu lửa và bị thiêu, để làm đuốc chiếu sáng ban đêm, khi ánh mặt trời tắt.” (Biên niên, XV, 44)

Nero đã soi sáng những bữa tiệc tại khu vườn ông ta với người Cơ Đốc mà ông ta thiêu sống, chắc chắn có một vài người đã thú tội dưới sự đe dọa của sự đau đớn kinh khủng như vậy. Nhưng sự thật là chúng ta không có một báo cáo nào mà người tin Chúa thời kỳ đầu từ chối đức tin để kết thúc sự đau đớn. Thay vào đó, chúng ta có rất nhiều lời chứng về sự xuất hiện sau khi phục sinh và hàng trăm nhân chứng sẵn sang chịu khổ và chết vì nó.

Nếu các môn đồ không lấy cắp xác, thì chúng ta có thể giải thích ngôi mộ trống ra sao nữa? Vài người đã cho rằng Đấng Christ đã giả chết và sau đó ra khỏi mộ. Điều này hiển nhiên là nực cười. Theo như nhân chứng làm chứng lại, Đấng Christ đã bị đánh đập, tra tấn, bị xé da, và bị đâm. Chúa chịu sự hủy hoại trong nội tạng, mất rất nhiều máu, bị ngạt thơ, và một giáo đâm thấu tim. Không có một lý lẽ đáng thuyết phục nào để tin rằng Chúa Giê-xu Christ (hoặc bất cứ con người nào trong trường hợp đó) có thể sống sót sự tra tấn, rồi giả chết, ngồi trong mộ trong ba ngày và đêm không được chăm sóc y tế, không đồ ăn thức uống, rồi tự gỡ tảng đá lớn mà bịt mộ Ngài, trốn thoát mà không bị phát hiện (không để lại đằng sau vệt máu), rồi thuyết phục hàng trăm người chứng kiến rằng Chúa đã phục sinh từ cõi chết và ở trong tình trạng sức khỏe tốt, và rồi biến mất mà không có dấu tích nào. Quan điểm như thế thật nực cười.

Dòng chứng cớ thứ năm về sự phục sinh của Đấng Christ.
Cuối cùng, dòng chứng cớ thứ năm liên quan đến tính chất kì lạ của việc làm chứng của chính nhân chứng. Trong tất cả các chuyện quan trọng kể về sự phục sinh, những người phụ nữ lại được coi là có công là nhân chứng chính và đầu tiên. Đây là sẽ là một sáng kiến kỳ lạ vì trong văn hóa người Do Thái và La Mã cổ thì người phụ nữ bị nhìn xuống một cách hà khắc. Những lời chứng của họ bị coi là không có giá trị và có thể bị xem thường. Với điều này, một người thủ phạm của sự bịp bợm trong thế kỷ đầu tiên ở Giu-đê sẽ cực kỳ khó mà chọn những người phụ nữa là những nhân chứng chính. Trong số tất cả các sứ đồ nam mà tuyên bố thấy Chúa Giê-xu phục sinh, nếu họ đều nói dối và phục sinh là trò bịp, tại sao họ lại chọn những nhân chứng mà bị coi rẻ và không được tin cậy nhất như vậy? Tiến Sĩ William Lane Craig giải thích, “Khi bạn hiểu vai trò của phụ nữ trong xã hội Do Thái trong thế kỷ đầu, thì thật là điều thực sự phi thường khi mà câu chuyện về ngôi mộ trống lại đề cao những người phụ nữ là những người khám phá ra ngôi mộ trống. Phụ nữ nằm ở nấc thang rất thấp trong cấp bậc địa vị xã hội ở xứ Palestine trong thế kỷ đầu tiên. Có những câu nói cổ của các bậc thầy rằng, ‘Hãy để lời của Luật Pháp bị thiêu còn hơn là đưa cho người phụ nữ’ và ‘phước cho người nào mà con cái là nam, nhưng khốn cho người nào mà con cái là nữ.’ Lời chứng của những người phụ nữ bị coi là rẻ rách đến nỗi mà họ thậm chí không thể là nhân chứng luật pháp trong tòa án luật pháp Do Thái. Với sự nhận biết này, quả là hết sức đáng chú ý rằng nhân chứng chính của ngôi mộ trống lại là những người phụ nữ này… Bất cứ câu chuyện truyền thuyết sau đó hẳn phải nên lấy nhân chứng nam là người tìm thấy mộ - ví dụ như Phiê-rơ và Giăng. Sự kiện mà phụ nữ là những nhân chứng đầu tiên tìm ngôi mộ trống được giải thích một cách dễ hiểu nhất bằng sự thật – dù chúng ta thích nó hay không – đó là họ là những người khám phá ra ngôi mộ trống! Điều này cho thấy các tác giả Phúc Âm đã trung thành ghi chép lại những gì đã xảy ra, thậm chí dù điều đó lúc đó là một điều xấu hổ. Điều này chứng thực tính chất có thực của câu chuyện hơn thay vì tính chất truyền thuyết của nó.” (Tiến sĩ William Lane Craig, trích bởi Lee Strobel, Chứng cớ về Đấng Christ, Grand Rapids: Zondervan, 1998, trang. 293)

Tóm tắt
Những dòng chứng cớ: Sự chân thật được thể hiện bởi các nhân chứng (và trong trường hợp của các sứ đồ là sự thay đổi không giải thích được và đáng thuyết phục), sự cải đạo và sự chân thật được thể hiện bởi những kẻ từng đối nghịch chủ chốt – và những người hoài nghi rồi trở thành những nhân vật tử vì đạo, sự kiện ngôi mộ trống, sự chứng nhận của kẻ thù về ngôi mộ trống, sự thật rằng những điều này đều xuất phát từ Giê-ru-sa-lem nơi mà niềm tin về sự phục sinh bắt đầu và nở rộ, những lời chứng của những người phụ nữ, sự đáng chú ý của những lời chứng như vậy với một bối cảnh lịch sử thời đó; tất cả những thứ này chứng thực mạnh mẽ cho tính chất lịch sử của sự phục sinh. Chúng tôi khích lệ những đọc giả của chúng tôi hãy suy xét kỹ lưỡng những dữ kiện này. Những điều này nói lên điều gì với các bạn? Sau khi đã tự suy xét kỹ lưỡng, chúng tôi xác quyết chắn chắn lời tuyên bố của Ngài Lionel:

“Bằng chứng về sự phục sinh của Đấng Christ quả là quá đỗi mạnh mà đến nỗi buộc phải chấp nhận bằng chứng mà không còn chỗ cho sự hoài nghi nữa.”

© hoithanhkienbai.blogspot.com Nguồn gotquestions.org


Để cập nhật đầy đủ những câu hỏi đáp này, bạn hãy vào trang bằng máy tính!








Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email: luaphucamhp@yahoo.com


Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..


Share this article :
Blogger Comments ( 0 )
Facebook Comments( )
Google Comments

0 Ý Kiến- Bình Luận- Nhận Xét :

Đăng nhận xét



NỘI QUY ĐĂNG NHẬN XÉT
» Hội Thánh Kiền Bái Blog cảm ơn bạn đã giành chút thời gian để đọc bài viết.
» Nếu có thắc mắc hay góp ý, bạn hãy để lại một nhận xét. Nhớ ĐỪNG ẨN DANH vì đây là điều TỐT để gây dựng Cơ Đốc.
» Nếu thấy bài viết hay hãy chia sẻ với những người thân, bạn bè biết.
» Vui lòng đăng những nhận xét, bình luận phải lịch sự và gõ tiếng Việt có dấu .
Những lời comment thiện ý của bạn sẽ giúp trang Hoithanhkienbai Blog ngày một phát triển! Thank you!!!

SỨC KHỎE- ÐỜI SỐNG

Xem tất cả Sức khoẻ đời sống »

SẮC ÐẸP

Xem tất cả Sắc đẹp »

GIA CHÁNH

Xem tất cả Gia chánh »

MẸ & BÉ

Xem tất cả Mẹ và bé »