A. Lễ Báp Têm
1. Chịu Báp-tem là thế
nào?
Chịu Báp-tem là chịu nhận chìm xuống nước và sau đó ra
khỏi nước.
"Và khi họ đã xưng tội mình rồi, thì chịu người làm phép
báp tem dưới sông Giô-đanh" (Ma-thi-ơ 3:6).
"Vừa khi chịu phép báp-tem rồi, Đức Chúa Jêsus ra khỏi
nước; bỗng chúc các từng trời mở ra, Ngài thấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự
xuống như chim bò câu, đậu trên Ngài" (Ma-thi-ơ
3:16).
2. Lễ Báp-tem có nghĩa
gì?
a. Lễ Báp-tem của
Giăng là ăn năn để tiếp nhận Đấng Cứu Thế sắp
đến.
"Phao-lô bèn nói rằng: Giăng đã làm phép báp-tem về sự ăn
năn tội, mà truyền dân phải tin Đấng sẽ đến sau mình, nghĩa là tin Đức Chúa
Jêsus" (Công vụ 19:4).
b. Lễ Báp-tem
nhân danh Chúa Giê-xu là nhận Ngài làm Cứu Chúa của mình và khi được dìm trong
nước là kể mình đã đồng chết và đồng chôn với Chúa về đời sống cũ rồi từ nước
lên là kể mình đã đồng sống lại với Chúa trong đời sống
mới.
"Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp tem trong
sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại
thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy" (Rô-ma
6:4).
3. Chịu phép Báp-tem có ích lợi
gì?
Có ích lợi lớn lắm:
a. Được làm trọn
mệnh lệnh Chúa dạy.
"Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức
Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều
mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến
tận thế" (Ma-thi-ơ 28:19-20).
b. Được hiệp nhất
với Chúa trong sự chết, sự chôn và sự sống lại của
Ngài.
"Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp tem trong
sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại
thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy" (Rô-ma
6:4).
4. Điều kiện để được thọ lễ
Báp-tem là gì?
a. Đã thật lòng
tin nhận Chúa Giê-xu.
b. Đời sống đã
thật sự đổi mới trở nên con cái Đức Chúa
Trời.
c. Biết và tin
các giáo lý căn bản
5. Nếu một người đã tin Chúa,
chưa chịu báp-tem mà đã qua đời thì được cứu hay
không?
Được!
"Đoạn lại nói rằng: Hỡi
Jêsus, khi Ngài đến trong nước mình rồi, xin nhớ lấy tôi! Đức Chúa Jêsus đáp
rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi
Ba-ra-đi" (Lu-ca 23:42-43).
B. Lễ Tiệc
Thánh
1. Ai đã lập Lễ Tiệc
Thánh?
Đức Chúa
Giê-xu
"Khi đương ăn, Đức Chúa Jêsus lấy
bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể
ta. Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi;
vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội"
(Ma-thi-ơ 26:26-28).
2. Ý nghĩa của Tiệc Thánh là
gì?
Dùng miếng bánh và chén rượu nho để
chỉ về thân Chúa vì chúng ta mà tan nát, huyết Chúa vì chúng ta mà đổ ra, để
tưởng niệm sự đau đớn của Ngài.
"Vả, tôi có nhận nơi Chúa điều tôi đã
dạy cho anh em: ấy là Đức Chúa Jêsus, trong đêm Ngài bị nộp, lấy bánh, tạ ơn,
rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm
điều nầy để nhớ ta. Cũng một lẽ ấy, sai khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và
phán rằng: Chén nầy là sự giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi
uống, hãy làm điều nầy để nhớ ta" (ICô 11:23 -25).
3. Trách nhiệm của người dự tiệc thánh là
gì?
Phải truyền ra sự chết của Chúa cho
đến khi Ngài trở lại.
"Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy,
uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến" (ICô 11:26 ).
4. Phước hạnh của kẻ được dự tiệc thánh là
gì?
a.
Để nhớ và thông công trong sự thương khó của
Chúa.
"Cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và
quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho
tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài" (Phi-líp
3:10).
b.
Để bảo đảm một tiệc mới trên trời, gọi là tiệc cưới Chiên
Con.
"Ta phán cùng các ngươi, từ rày về
sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới
cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta" (Ma-thi-ơ
26:29).
"Thiên sứ phải cùng tôi rằng: Hãy
chép: Phước thay cho những kẻ được mời đến dự tiệc cưới Chiên Con! Người lại
tiếp rằng: Đó là những lời chơn thật của Đức Chúa Trời" (Khải
19:9).
5. Tại sao mọi người dầu mới tin hay theo Chúa đã lâu dầu
đã thọ lễ báp-tem hay chưa chịu báp-tem đều được dự tiệc
thánh?
Vì bánh và chén tượng trưng cho thân
và huyết Chúa dành cho tất cả những ai đáp ứng lời mời của Chúa và tìm đến tin
nhận Ngài. Người nào chưa ăn năn đầu phục Chúa thì phải chờ cho đến khi có đức
tin nơi Chúa Cứu Thế Jêsus.
"Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh
của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát" (Giăng
6:35 ).
"Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được
sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại. Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là
đồ uống. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong
người" (Giăng 6:54-56).
"Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của Chúa cách không
xứng đáng, thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa" (ICô
11:27).
C.
Lễ Thành
Hôn
1. Ai lập lễ thành hôn và khi
nào?
Đức Chúa Trời lập lễ thành hôn, sau
khi đã dựng nên tổ tông loài người.
"Ngài trả lời rằng: Các ngươi há chưa
đọc lời chép về Đấng Tạo Hóa, hồi ban đầu, dựng nên một người nam, một người nữ,
và có phán rằng: Vì cớ đó người nam sẽ lìa cha mẹ, mà dính díu với vợ mình; hai
người sẽ cùng nên một thịt hay sao?" (Ma-thi-ơ 19:4-5)
2. Đức Chúa Trời lập lễ hôn nhân với mục đích
gì?
a.
Để vợ chồng giúp đỡ lẫn nhau.
"Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng:
Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúpđỡgiống như nó"
(Sáng 2:18 ).
b.
Để sanh sản thêm nhiều trên đất.
"Đức Chúa Trời ban phước cho loài
người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho
đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật
sống hành động trên mặt đất" (Sáng 1:28 ).
c.
Để chung hưởng mối tương thông tuyệt diệu như Đấng Christ và Hội
Thánh.
"Vậy nên người đờn ông phải lìa cha
mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt. Sự mầu nhiệm ấy là lớn,
tôi nói về Đấng Christ và Hội thánh vậy" (Ê-phê-sô 5:31 -32).
3. Thế nào là một hôn nhân đẹp ý Đức Chúa
Trời?
a. Cả hai đều là
con cái của Chúa.
"Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin.
Bởi vì công bình với gian ác có hòa hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có
thông đồng nhau được chăng" (IICô 6:14 )?
b.
Người nam có một vợ và người nữ có một chồng mà
thôi.
"Vả, hơi sống của Đức Chúa Trời dầu
có dư dật, chỉ làm nên một người mà thôi. Nhưng vì sao chỉ làm một người? Ấy là
vì tìm một dòng dõi thánh. Vậy các ngươi khá cẩn thận trong tâm thần mình; chớ
đãi cách phỉnh dối với vợ mình lấy lúc tuổi trẻ" (Ma-la-chi 2:15 ).
4. Tín đồ phải kết hôn với tín đồ thì có phải là kỳ thị
tôn giáo không?
Không! Vì Chúa biết muốn có một gia
đình hạnh phúc thì vợ chồng phải đồng một tâm tình đồng tư tưởng, đồng tín
ngưỡng.
"Nếu hai người không đồng ý với nhau,
thì há cùng đi chung được sao" (A-mốt 3:3)?
Thí dụ:
a.
Công bình và gian ác không thể kết hợp với nhau
được.
b.
Ánh sáng và bóng tối không thể hòa đồng với nhau
được.
c.
Cứu Chúa và ma quỉ không thể hòa hợp với nhau
được.
d.
Người tin Chúa không có phần gì với người không tin
Chúa.
e.
Đền thờ Đức Chúa Trời không có tương quan gì với hình
tượng.
Vậy đừng mang ách chung với kẻ chẳng
tin, như con bò và con lừa không thể mang một ách.
"Chớ cày bằng một con bò thắng chung
với một con lừa" (Phục 22:10 ).
"Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin.
Bởi vì công bình với gian ác có hòa hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có
thông đồng nhau được chăng? Đấng Christ và Bê-li-an nào có hòa hiệp chi, hay là
kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin? Có thể nào hiệp đền thờ Đức Chúa Trời lại
với hình tượng tà thần? Vì chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống, như
Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽởvà đi lại giữa họ; ta sẽ làm Đức Chúa Trời của
họ, và họ làm dân ta. Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy
phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, Thì ta sẽ tiếp nhận các
ngươi: Ta sẽ làm Chúa các ngươi, Các ngươi làm con trai con gái ta, Chúa Toàn
năng phán như vậy" (IICô 6:14 -18).
5. Quyền hạn của chồng và vợ đến
đâu?
Chồng làm gì phải được sự đồng ý của
vợ, vợ làm gì phải được sự đồng ý của chồng, vì cả hai đã trở nên
một.
"Chồng phải làm hết bổn phận đối với
vợ, và đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền tự chủ về thân mình, bèn là
chồng; chồng cũng vậy, không có quyền tự chủ về thân mình bèn là vợ" (ICô
7:3-4).
6. Bổn phận của vợ là
gì?
Bổn phận của vợ là phục tùng
chồng.
"Hỡi kẻ làm vợ, phải vâng phục chồng mình như vâng phục
Chúa, vì chồng là đầu vợ, khác nào Đấng Christ là đầu Hội thánh, Hội thánh là
thân thể Ngài, và Ngài là Cứu Chúa của Hội thánh. Ấy vậy, như Hội thánh phục
dưới Đấng Christ, thì đờn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự"
(Ê-phê-sô 5:22-24).
7. Bổn phận của chồng là
gì?
Bổn phận của chồng là yêu vợ như Đấng Christ yêu Hội
Thánh.
"Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã
yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh" (Ê-phê-sô
5:25),
"Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình.
Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy. Vì chẳng hề có người nào ghét chính thân
mình, nhưng nuôi nấng săn sóc nó như Đấng Christ đối với Hội thánh" (Ê-phê-sô
5:28-29),
"Hỡi người làm chồng, hãy tỏ điều khôn ngoan ra trong sự
ăn ở với vợ mình, như là với giống yếu đuối hơn; vì họ sẽ cùng anh em hưởng
phước sự sống, nên phải kính nể họ, hầu cho không điều gì làm rối loạn sự cầu
nguyện của anh em" (IPhi 3:7).
D.
Lễ Dâng
Con
1. Tại sao tín hữu phải đem con mình dâng lên
Chúa?
a.
Vì nhận rằng con mình là cơ nghiệp đời đời của Chúa cho, nó quí hơn bất
cứ cơ nghiệp nào tại trần gian.
"Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức
Giê-hô-va mà ra; Bông trái của tử cung là phần thưởng" (Thi
127:3).
b.
Vì xưa nay những người yêu mến Chúa đều dâng con mình cho Ngài, để
chúng được Ngài trọng dụng trong công
việc cao cả, như bà Anne:
"Vì vậy, tôi cũng dâng nó cho Đức
Giê-hô-va; tôi cho Đức Giê-hô-va mượn nó trọn đời nó. Đoạn mẹ con đều thờ lạy
tại đó trước mặt Đức Giê-hô-va" (ISa 1:28 ).
Như
Ma-ri:
"Khi đã hết những ngày tinh sạch rồi,
theo luật pháp Môi-se, Giô-sép và Ma-ri đem con trẻ lên thành Giê-ru-sa-lem để
dâng cho Chúa" (Lu-ca 2:22 ),
Ước ao chúng ta đều nói được như
Giô-suê:
"Nếu chẳng thích cho các ngươi phục
sự Đức Giê-hô-va, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần
mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần dân A-mô-rít trong
xứ mà các ngươiở;nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va" (Giô-suê
24:15).
2. Một người đã dâng con cho Chúa thì còn có trách nhiệm
đối với con ấy không?
Xưa nay Chúa dùng cha mẹ để đào tạo
con cái đắc dụng cho Ngài:
a. Chúa đã dùng Áp-ra-ham sanh ra một tuyển dân
cho Ngài. Qua dân đó, Ngài ban sự khải thị cho nhân loại. Cũng qua dân đó, Ngài
ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Hai việc nầy quan trọng nhất trong lịch sử loài
người.
"Ta đã chọn người đặng người khiến
dạy các con cùng nội nhà người giữ theo đạo Đức Giê-hô-va, làm các điều công
bình và ngay thẳng; thế thì, Đức Giê-hô-va sẽ làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã hứa
cùng Áp-ra-ham" (Sáng 18:19 ).
b. Để có những bậc vĩ nhân, Chúa đã chuẩn bị các
bận cha mẹ như Am-ram và Giô-kê-bết, cha mẹ của Môi-se (Xuất 2:1-10 &
Hê-bơ-rơ 11:23 -28 & Dân 26:59);
An-ne, mẹ của Sa-mu-ên (ISa 1) Ơ-nít, mẹ của Ti-mô-thê (IITim
1:5).
c.
Cha mẹ có trách nhiệm:
1. Nuôi con cái
"Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho
con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng
chúng nó" (Ê-phê-sô 6:4).
2. Dạy dỗ con cái
"Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó
phải theo; Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó" (Châm
22:6).
"Hãy dạy nó lại cho con cái mình, nói
đến hoặc khi ngươi ngồiởtrong nhà hay là đi đường, hoặc khi ngươi nằm hay là khi
chổi dậy. Cũng phải ghi các lời ấy trên cột nhà và trên cửa mình" (Phục
11:19 -20).
3. Làm gương cho con
cái
"Mục đích của sự răn bảo, ấy là sự
yêu thương, bởi lòngtinh sạch, lương tâm tốt và đức tin thật mà sanh ra" (ITim
1:5).
3. Có phải cha mẹ có quyền tuyệt đối trên con cái
không?
Không? Ai hành động như vậy là sai
lầm:
a.
Vì chúng ta biết con cái là cơ nghiệp của Chúa cho, chính chúng ta và mọi
sự chúng ta có cũng vậy.
b.
Vì chúng ta đã dâng con mình cho Chúa, chúng nó đã hoàn toàn thuộc về
Ngài. Vô luận lúc nào, việc gì Chúa muốn dùng nó, chúng ta phải cúi đầu. Đó là
quyền tuyệt đối của Ngài, thậm chí Chúa muốn đem chúng nó về trước với Ngài trên
trời cũng vậy.
E. Lễ
An Táng
1. Có phải nhờ làm lễ an táng mà người chết được cứu
không?
Không! Ai tin Chúa Jêsus thì được
cứu, ai không tin Chúa Jêsus thì bị hư mất. Kẻ tin Chúa dù chết cách nào không
có không được làm lễ, không được an táng cũng được cứu. Hãy xem sự chết của
người trộm cướp bên cạnh Chúa Jêsus (Lu-ca 23:40 -43).
"Nhưng tên kia trách nó rằng: Ngươi
cũng chịu một hình phạt ấy, còn chẳng sợ Đức Chúa Trời sao? Về phần chúng ta,
chỉ là sự công bình, vì hình ta chịu xứng với việc ta làm; nhưng ngươi nầy không
hề làm một điều gì ác. Đoạn lại nói rằng: Hỡi Jêsus, khi Ngài đến trong nước
mình rồi, xin nhớ lấy tôi! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi,
hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi" (Lu-ca 23:40 -43).
2. Thế thì tại sao mỗi lần có người chết, tang gia phải
mời Mục Sư hay Truyền đạo làm lễ an
táng?
Làm lễ an táng không phải lo cho
người chết mà lo cho người sống:
a.
An ủi tang gia
"Hỡi anh em, chúng tôi chẳng muốn anh
em không biết về phần người đã ngủ, hầu cho anh em chớ buồn rầu như người khác
không có sự trông cậy" (ITê 4:13 ).
b.
Cảnh cáo mọi người chuẩn bị sẵn sàng cho ngày mình qua
đời.
"Hỡi Y-sơ-ra-ên, vậy nên ta sẽ đãi
ngươi dường ấy; hỡi Y-sơ-ra-ên, vì ta sẽ đãi ngươi dường ấy, nên ngươi khá sửa
soạn mà gặp Đức Chúa Trời ngươi" (A-mốt 4:12 ).
c.
Kêu gọi tội nhân ăn năn.
"Người giàu ở nơi âm phủ đang bị đau
đớn, ngước mắt lên, xa thấy Áp-ra-ham, và La-xa-rơ trong lòng người" (Lu-ca
16:23 );
d.
Khích lệ mọi người theo Chúa
1. Ước ao được chết như người công nghĩa "Ai đếm
được bụi cát của Gia-cốp, Ai tu bộ được phần tư của Y-sơ-ra-ên? Người công chánh
thác thể nào, tôi nguyện thác thể ấy; Cuối cùng người nghĩa làm sao, tôi nguyện
cuối cùng tôi làm vậy" (Dân 23:10 )!
2. Ước ao được chết như người thánh của Đức Chúa
Trời
"Sự chết của các người thánh. Là quí
báu trước mặt Đức Giê-hô-va" (Thi 116:15).
3. Ước ao được chết cách nào để tôn vinh
Chúa
"Ngài nói điều đó để chỉ về Phi-e-rơ
sẽ chết cách nào đặng sáng danh Đức Chúa Jêsus. Và sau khi đã phán như vậy, Ngài
lại rằng: Hãy theo ta" (Giăng 21:19 ).
4. Ước ao được Chúa Giê-xu đứng dậy tiếp linh
hồn mình như Ê-tiên.
"Nhưng người, được đầy dẫy Đức Thánh
Linh, mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa
Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời" (Công vụ 7:55);
5. Ước ao được như Phao-lô khi sắp tắt
hơi.
"Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự
chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành
cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, không
những cho ta mà thôi, những cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài" (IITim
4:7-8).
6. Ước ao như La-xa-rơ, dầu phải nghèo
khó.
"Vả, người nghèo chết, thiên sứ đem
để vào lòng Áp-ra-ham; người giàu cũng chết, người ta đem chôn" (Lu-ca 16:22 ).
7. Ước ao trung tín với Chúa cho đến
chết.
"Ngươi chớ ngại điều mình sẽ chịu
khổ. Nầy, ma quỉ sẽ quăng nhiều kẻ trong các ngươi vào ngục, hầu cho các ngươi
bị thử thách; các ngươi sẽ bị hoạn nạn trong mười ngày. Khá giữ trung tín cho
đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi mũ triều thiên của sự sống" (Khải 2:10 ).
8. Ước ao trọn đời sống trong Chúa để được chết
trong Chúa.
"Tôi nghe có tiếng đến từ trên trời
rằng: Hãy viết lấy: Từ rày, phước thay cho những người chết là người chết trong
Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải, vì những người ấy nghĩ ngơi khỏi sự khó nhọc,
và việc làm mình theo sau" (Khải 14:13 ).
3. Có nên làm lễ an táng cho tín đồ yếu đuối
không?
Nên làm! Nếu được tang gia mời, như
trên đã nói, chúng ta không làm lễ cho ai được cứu, mà chỉ để an ủi, cảnh cáo,
khích lệ tang gia. Trong trường hợp này người hành lễ không nên đề cập đến sự
cứu rỗi linh hồn của người đã chết. Vì đó là việc riêng giữa Đức Chúa Trời và kẻ
ấy, mà chỉ nên có sứ mạng trực tiếp cho những người đang đứng trước mặt mình.
Nhiều trường hợp như vậy đã thức tỉnh tang gia và đem họ đến sự ăn
năn.
4. Tại sao người tin Chúa cũng chết như người không tin
Chúa?
Theo như đã định cho loài người phải
chết một lần (vô luận thiện ác), rồi chịu phán xét (Hê-bơ-rơ 9:27 ).
Sự chết không phải là điểm tận cùng
của một người, nó là điểm tận cùng của cuộc đời tạm thời tại trần gian song là
khởi điểm của cuộc đời vĩnh viễn trên thiên đàng hay dưới địa ngục như La-xa-rơ
và người giàu có. Vì thế, chúng ta gọi chết là qua đời hay từ
trần.
Câu gốc của bài học:
"Nhưng anh em là dòng giống được lựa
chọn, là chắc thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh là dân thuộc về Đức Chúa Trời,
hầu cho anh em rao giảng nhơn đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm,
đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài" (IPhi 2:9).
Mọi đóng góp về bài vở xin liên hệ tới chúng tôi qua email:
luaphucamhp@yahoo.com
Trang Hoithanhkienbai Blog: Một trang chia sẻ cho bạn về niềm tin nơi Thượng Đế trong Đức Chúa Giê-xu Christ: Tin tức, dưỡng linh, đời sống, hôn nhân, vvv..
0 Ý Kiến- Bình Luận- Nhận Xét :
Đăng nhận xét
NỘI QUY ĐĂNG NHẬN XÉT
» Hội Thánh Kiền Bái Blog cảm ơn bạn đã giành chút thời gian để đọc bài viết.
» Nếu có thắc mắc hay góp ý, bạn hãy để lại một nhận xét. Nhớ ĐỪNG ẨN DANH vì đây là điều TỐT để gây dựng Cơ Đốc.
» Nếu thấy bài viết hay hãy chia sẻ với những người thân, bạn bè biết.
» Vui lòng đăng những nhận xét, bình luận phải lịch sự và gõ tiếng Việt có dấu .
Những lời comment thiện ý của bạn sẽ giúp trang Hoithanhkienbai Blog ngày một phát triển! Thank you!!!